Hôm nay,  

Ó Biển Cô Đơn

14/05/201400:00:00(Xem: 12458)

Tác giả: Trần Du Sinh
Bài số 4212-14-29622vb4051414

Chuyện về một “tình cảm bất ngờ” giữa hai chàng sĩ quan không quân Mỹ. Đây là bài viết thứ ba của Du Sinh. Tác giả họ Trần, một kỹ sư hàng hải, cư dân San Diego, lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ Tháng Tư 2014. Bài đầu tiên: Phố Đèn Đỏ Geylang, chuyện “kỳ ngộ” giữa mấy chàng chuyên viên Mỹ và hai kiều nữ từ Việt Nam lưu lạc vào khu đèn đỏ tại Singapore. Bài thứ hai, “Lính Mỹ gốc Nail”.

* * *

Tôi nhớ hồi còn ở Việt Nam người ta hay đưa ra ba tiêu chuẩn mà người đàn ông nào cũng mong muốn, nhưng mong nhiều hơn vẫn là các cô gái, nào là đẹp trai, học giỏi, con nhà giàu. Riêng Alex, một phi đoàn trưởng của Hải Quân Mỹ, không những có đủ ba yếu tố trên, mà còn có thêm sự nghiệp danh dự nữa. Ở tuổi 34, anh đã là một tư lệnh bay, dưới trướng có 6 phi công và cả hai chục kỹ sư hàng không quân sự. Đó là chưa kể anh có gương mặt hao hao Tom Cruise, lại tập thể dục mỗi ngày nên thân hình có thể gọi là 'hot boy', dù đã qua tuổi ba mươi.

Có vẻ như cái câu 'nhân vô thập toàn’ của phương Đông không đúng lắm với anh, vì đứng ở đâu anh cũng chói sáng với nét điển trai, thông minh và phong độ. Thu nhập của một thiếu tá có 16 năm quân ngũ cũng quá sáu con số, đủ cho một chàng độc thân như Alex sống vương giả. Anh không còn nhớ mình đã có bao nhiêu người tình một đêm, hay tình nhân ngắn hạn. Một người đàn ông có căn nhà riêng gần phố San Diego, một trong mười thành phố tốt nhất nước Mỹ, có xe đẹp và có tiền rủng rỉnh thì thiếu gì gái đẹp chạy theo, chưa kể anh còn có mã đẹp trai nữa.

Có người thắc mắc tại sao Alex không lập gia đình. Hỏi tới thì Alex kể ra hàng loạt cô bạn gái cũ với nhiều tính cách không hợp với anh. Có lẽ anh quá tòan mỹ nên cũng cầu toàn. Hay cũng có lẽ anh không cần phải chạy theo một người đẹp nào, vì kiếm bạn gái ở những quán bar quá dễ. Hình như Alex chưa biết yêu là gì, vì không có thời giờ cho tình yêu, khi mọi thứ đều dễ dãi đối với anh để có một người tình.

Cho đến một ngày anh gặp Charlie, một thiếu úy trẻ lai Mỹ-Việt. Mẹ Charlie gốc Việt, ba Charlie là Mỹ trắng lai Tây Ban Nha, nên Charlie có vẻ đẹp rất lạ, vừa lãng mạn kiểu Latino vừa huyền bí phương Đông.

Hai người gặp nhau ở phòng tập thể hình, dần dần thành bạn tập tạ chung, rồi hay ăn trưa chung. Hai lứa tuổi khác nhau nhưng có quá nhiều cái chung. Cả hai đều hướng đến cái Chân-Thiện-Mỹ và có những hoài bão lớn trong đời. Không ai muốn làm người đàn ông tầm tầm dễ lạc vào đám đông. Cả hai đều âm thầm đua tranh nhau, cùng khích nhau tập thể hình cho tới một điểm mà không biết làm sao để hoàn thiện hơn.

Tạo hóa thật trớ trêu, để hai người đàn ông có sức hấp dẫn khác thường ở gần nhau, tạo ra một xung điện mới. Lực vạn vật hấp dẫn đôi khi lại áp dụng cho người. Charlie là đàn ông đã có vợ, dù mới ngoài hai mươi, vì hôn nhân gần như là cách để Charlie sống gần với cô bạn gái quen nhau từ thời trung học, vì căn cứ San Diego quá xa với thành phố New York, nơi hai đứa đi học chung. Vả lại lương sĩ quan quân đội Mỹ cũng đủ nuôi vợ, dù Charlie vẫn còn khá trẻ. Vợ Charlie là một cô gái Việt, mẹ của hai đứa vốn quen nhau.

Alex lớn tuổi hơn, đã ngoài ba mươi nhưng vẫn độc thân. Đôi bạn lệch tuổi, một sĩ quan mới ra trường và một tư lệnh bay có thâm niên 16 năm quân ngũ. Những ràng buộc về cấp bậc và ngôn ngữ quân đội cũng ngăn cản hai người bạn trao đổi vô tư trước đám đông. Nhưng ngày nào ở phòng tập người này thường mang cho người kia những món quà vụn vặt, đôi khi chỉ là những chai nước Gatorade hay trái chuối quả táo tươi.

Thường thì Alex rất kín đáo, vì dù sao anh cũng là thượng cấp, nói năng phải cẩn thận. Nhưng anh chưa bao giờ bỏ sót dịp nào để hỏi thăm Charlie khi thấy Charlie có thóang buồn. Mỗi lần như vậy là hai người tâm sự được nhiều hơn, hiểu nhau hơn rồi thành tri kỷ từ lúc nào không hay.

Rồi thời gian trôi đi, ngày nào phòng tập vắng một người là người kia không có nhiều hứng thú để đổ mồ hôi vài tiếng đồng hồ với những cục tạ vô tình. Đã lâu Alex không bay, mà chỉ huấn luyện và quản lý đội bay. Anh nhớ cái bầu trời đen muôn trùng trong những chuyến bay đêm. Khi đó anh chỉ có một mình giữa vũ trụ bao la, cũng là lúc anh thét lên giữa khoảng không những kìm nén đời thường, những cái mà một sĩ quan cao cấp như anh không được biểu lộ hằng ngày, vì tác phong lãnh đạo, vì quân kỷ, vì gương mẫu, và vì hãnh tiến, dù cái luật sa thải người đồng tính, gọi là "Don't ask, don't tell" đã bị hủy từ mấy năm nay.


Ngày mai Charlie nghỉ phép về thăm vợ trong lúc đợi khóa học chuyên môn bắt đầu vào tháng tới, sau khi tốt nghiệp sẽ chuyển tới một đơn vị mới chưa biết ở đâu. Đời quân nhân đâu thể tự chủ được mình.

Ăn cơm tối xong, Charlie tới phòng tập sớm đợi Alex, nhưng không màng đến chuyện tập thể dục. Anh tới để nói lời chia tay. Hôm nay Alex không tới, anh tình nguyện bay diễn tập với một phi công trẻ trên một bầu trời miên viễn tối thăm thẳm, không một chút trăng sao. Anh thấy mình bay lượn như một con ó biển cô đơn. Người ta vẫn nói, những người thành đạt thường cô đơn.

Ngày Charlie đi, chỉ có anh tài xế đưa ra sân bay Kuala Lumpur để bay về Mỹ. Đời quân ngũ có mấy ai được kẻ đón người đưa cho trọn vẹn. Cô vợ trẻ cũng chỉ đưa Charlie một lần duy nhất, và cũng gần hai năm rồi. Rồi cũng quen, nhưng hôm nay anh thấy trống vắng, rồi tự hỏi mình phải chăng là mình tự hoang tưởng. Cấp bậc thiếu úy thì làm gì có tư cách để một thiếu tá phải đưa.

Anh lầm lũi bước ra khỏi chiến hạm, lên chiếc xe Van đang chờ sẵn trên cầu tàu. Lên xe, anh chẳng biết làm gì, cũng chẳng có ai để gọi, và rồi ngả người vào băng ghế cố tìm cho được giấc ngủ vùi. Đường từ căn cứ quân sự của Mã Lai tới sân bay cũng tốn hết một tiếng lái xe, Charlie cố dỗ mình vào giấc.

Rồi hình ảnh ông sếp đầy mẫu mực, một hình tượng của thành công và phong cách lãnh đạo lại hiện lên. Alex, thần tượng của các phi công trẻ và những tân sĩ quan như Charlie với nụ cười hiền khô, giọng nói chậm rãi từ tốn, và một đôi mắt rất sâu, như tài tử Tom Cruise. Triền miên trong chuỗi tư tưởng, Charlie giật mình thấy sợ. Anh tự nhủ, "Mình là đàn ông đã có vợ, đang tính chuyện sanh con, mà tại sao lại nghĩ về một người đàn ông khác." Charlie thấy lạnh sống lưng. Băng ghế sau cũng thấy lạnh. Anh toát mồ hôi từng cơn. Định thần lại, anh tự an ủi mình: "Có lẽ đây là bệnh hoang tưởng của những thủy thủ, những người cô đơn trên biển hàng tháng trời thường mơ bóng một nàng tiên cá xinh đẹp." Nhưng Charlie không mơ đến một nàng tiên cá, anh chỉ nghĩ đến Alex, một ông thượng cấp, một bạn tập phòng gym. Anh dùng tay điểm chỉ và cầu nguyện. Anh vốn là tông đồ Công Giáo thuần thành như mẹ anh, một người Việt gốc Bắc 54. Anh cầu Chúa xin tha tội. Anh cầu xin quỉ dữ đừng ám ảnh anh dưới hình hài của Alex.

Rồi anh cũng check-in để lên cổng ra máy bay. Trống rỗng, chẳng có gì mong đợi, có chăng là cô vợ trẻ đang đợi chồng về. Bụng đói, môi khô, Charlie cũng chẳng màng. Anh đi thẳng tới cổng an ninh để làm cho xong thủ tục.

Rồi giây phút nặng nề cũng qua, trong lúc anh cúi xuống cột lại đôi giày bỗng bắt gặp một tia nhìn từ xa với đôi kiếng Ray Ban Aviator quen thuộc. Anh đứng dậy nhìn cho rõ thì đôi kiếng đó lại di chuyển xa về đám đông. "Chắc không phải là Alex, mình lại hoang tưởng rồi". Charlie bước vội về phía cổng máy bay như muốn cắt đứt cái dòng suy nghĩ mông lung này.

Máy bay cất cánh.

*

Ngồi nơi góc cà phê Starbucks trong sân bay, Alex thu mình lại trên ghế sofa, mắt nhìn chăm chăm vào tấm thẻ bài anh bắt gặp ở dưới chân cửa phòng. Tối hôm đó không gặp được Alex, Charlie đã đến trước cửa phòng ngủ len lén luồn cái thẻ bài của mình dưới nền nhà.

Mỗi quân nhân khi vào trường Huấn Nhục chỉ được cấp duy nhất một lần trong đời hai tấm thẻ bài. Trên tấm thẻ bài ghi đầy đủ thông tin cơ bản về tôn giáo, nhóm máu và số quân dịch để phòng khi tử nạn, đồng đội sẽ chôn họ chung với tấm thẻ bài, sau này sẽ làm vật nhận dạng thi hài. Charlie đưa một tấm cho vợ, còn một tấm luôn đeo trong mình. Tối nay anh quyết định tặng cho Alex, không biết để làm gì, nhưng anh nghĩ đó là thứ gần gũi với anh nhất mà anh muốn Alex lưu giữ. Charlie muốn xung phong vào những điểm nóng, một phần vì lí lịch quân nhân để thăng tiến sự nghiệp, một phần anh cũng muốn theo gương Alex, người đã từng vào chiến trường suốt 16 năm qua, từ Kosovo, Iraq cho tới Afghanistan.

Alex lặng nhìn tấm thẻ bài, bỗng đưa tay ra làm dấu chỉ cầu nguyện. Anh vốn là tín đồ Kitô Giáo nhưng không mấy thuần thành. Hôm nay bỗng dưng anh muốn cầu nguyện cho Charlie và cũng muốn xưng tội cho mình. Không biết Chúa trên cao có thấy tội của họ hay không.

Trần Du Sinh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 844,292,032
Tác giả từng sống ở trại tỵ nạn PFAC Phi Luật Tân gần mười một năm. Ông tên thật Trần Phương Ngôn, hiện hành nghề Nail tại South Carolina và cũng đang theo học ở trường Trident Technical College. Với bài "Niềm Đau Ơi Ngủ Yên" viết về trại tị nạn Palawan-Philippines, Triều Phong đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Bút hiệu của tác giả là tên thật. Bà cho biết sinh ra và lớn lên ở thành phố Sài Gòn, ra trường Gia Long năm 1973. Vượt biển cuối năm 1982 đến Pulau Bibong và định cư đầu năm 1983, hiện đã nghỉ hưu và hiện sinh sống ở Menifee, Nam California.
Tháng Năm tại Âu Mỹ là mùa hoa poppi (anh túc). Ngày thứ Hai của tuần lễ cuối tháng Năm -28-5-2018- là lễ Chiến Sỹ Trận Vong. Và Memorial Day còn được gọi là Poppy Day. Tác giả Sáu Steve Brown, một cựu binh Mỹ thời chiến tranh VN, người viết văn tiếng Việt từng nhận giải văn hóa Trùng Quang trước đây đã có bài về hoa poppy trong bài thơ “In Flanders Fields”. Nhân Memorial sắp tới, xin mời đọc thêm một bài viết khác về hoa poppy bởi Phan. Tác giả là nhà báo trong nhóm chủ biên một tuần báo tại Dallas, đã góp bài từ nhiều năm, từng nhận giải Vinh Danh Tác Giả Viết Về Nước Mỹ. Ông cũng là tác giả Viết Về Nước Mỹ đầu tiên có nhiều bài đạt số lượng người đọc trên dưới một triệu.
Với bài “Hành Trình Văn Hóa Việt tại UC Irvine”, tác giả đã nhận Giải Việt bút Trùng Quang 2016. Ông tốt nghiệp cử nhân về Ngôn Ngữ Học tiếng Tây-Ban-Nha tại UC Irvine. Sau 5 năm rời trường để theo học tại UCLA, tốt nghiệp với hai bằng cao học và tiến sĩ về ngành Ngôn Ngữ Học các thứ tiếng gốc La-Tinh, ông trở lại trường cũ và trở thành người đầu tiên giảng dạy chương trình tiếng Việt, văn hoá Việt tại UC Irvine từ năm 2000 cho tới nay. Sau khi nhận giải Việt Bút Trùng Quang 2016, tác giả vẫn tiếp tục góp thêm bài viết về nước Mỹ.
Tác giả 58 tuổi, hiện sống tại Việt Nam. Bài về Tết Mậu Thân của bà là lời kể theo ký ức của cô bé 8 tuổi, dùng nhiều tiếng địa phương. Bạn đọc thấy từ ngữ lạ, xin xem phần ghi chú bổ túc.
Tác giả hiện là cư dân Arkansas, đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2017. Bà tên thật Trịnh Thị Đông, sinh năm 1951, nguyên quán Bình Dương. Nghề nghiệp: Giáo viên anh ngữ cấp 2. Với bút hiệu Dong Trinh, bà dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7, 2016, và luôn cho thấy sức viết mạnh mẽ và cách viết đơn giản mà chân thành, xúc động. Sau đây, là bài mới viết về đứa con phải rời mẹ từ lúc sơ sinh năm 1975, hơn 40 năm sau khi đã thành người Mỹ ở New York vẫn khắc khoải về người mẹ bất hạnh.
Tác giả sinh trưởng ở Bến Tre, du học Mỹ năm 1973, trở thành một chuyên gia phát triển quốc tế của USAID, hiện đã về hưu và an cư tại Orange County. Ông tham gia VVNM năm 2015, đã nhận giải Danh Dự năm 2016 và giải á khôi “Vinh Danh Tác Phẩm” năm 2017. Bài mới của ông nhân Ngày Lễ Mẹ kể về người Mẹ thân yêu ở quê hương.
Hôm nay, Chủ Nhật 13, Mother’s Day 2018, xin mời đọc bài viết đặc biệt dành cho Ngày Lễ Mẹ. Tác giả tên thật Trần Năng Khiếu. Trước 1975 là Công Chức Bộ Ngoại Giao VNCH. Đến Mỹ năm 1994 theo diện HO. Đã đi làm cho đến năm 2012. Hiện là công dân hưu trí tại Westminster. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 8/2015. Đã nhận giải đặc biệt 2016. Nhận giải danh dự VVNM 2017.
Chủ Nhật 13 tháng Năm là Ngày Của Mẹ tại nước Mỹ năm 2018. Mời đọc bài viết của Nguyễn Diệu Anh Trinh. Tác giả sinh năm 1959 tại Đà Nẵng, đến Mỹ năm 1994 diện HO cùng bố và các em, định cư tại tiểu bang Georgia. Hiện là nhân viên công ty in Scientific Games tại Atlanta, tiểu bang Georgia. Bà đã góp bài từ 2015, kể chuyện về người bố Hát Ô và nhận giải Viết Về Nước Mỹ.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ bằng cách viết lời giới thiệu và chuyển ngữ từ nguyên tác Anh ngữ bài của một người trẻ thuộc thế hệ thứ hai của người Việt tại Mỹ, Quinton Đặng, và ghi lại lời của người me, Bà Tôn Nữ Ngọc Quỳnh, nói với con trai.
Nhạc sĩ Cung Tiến