Tác giả: Phạm Ngọc
Bài số 4113-14-29513vb3011414Tác giả lần đầu dự Viêt Về Nước Mỹ. Bài đầu tiên được ghi là “viết
thay lời cầu nguyện cho các linh hồn đã bỏ mình trên đường đi tìm Tự
Do và riêng cho bạn tôi”. Mong Phạm Ngọc sẽ tiếp tục viết.* * *
"Sao, đã tính gì chưa? Khi nào có thì nhớ gọi nhen !"
"Chừng nào? Sao lâu quá vậy ?"
"Ở đâu? mà có chắc chắn không ?"
Vài tháng sau ngày "đứt phim, sau ngày đổi đời, ông thành thằng,
thằng bỗng trở nên ông thì những câu hỏi trên ngày càng nhiều. Ai
cũng muốn đi, ai cũng muốn có một sự đổi đời thay cho cuộc sống đày
đọa đến cùng cực nếu còn phải ở lại, nhất là những công chức cao
cấp, các văn nghệ sĩ, những sĩ quan bị đưa vào những trại tù khắp
nơi trên đất nước, từ Nam chí Bắc vừa mới đưọc thả về.
Những từ mới xuất hiện trong " từ điển dân gian" của người
dân miền Nam ngày càng trở nên quen thuộc: "Taxi, cá lớn, cá bé,
cây, tạm ứng, điện tín, nằm ổ, mua bãi, anh đã đưa con về thăm
ngoại..." nhiều câu ca dao tục ngữ, những câu nói sâu sắc và cay
chua của người dân trong nước ngày càng phong phú hơn
"Rồng vàng tắm nước ao tù
Người khôn ở với kẻ ngu bực mình"
Các lọai thuốc say sóng, các loại lương khô, các lọại sâm lát để
ngậm cho khoẻ, các loại la bàn ngày càng trở nên hiếm hoi trên thị
trường vì có quá nhiều nhu cầu sử dụng.
Cả nước lên cơn sốt vượt biên.
Từ đó sinh ra nhiều chuyên lường gạt nhau, cho dù biết rằng lường gạt
như vậy là ác nhơn ác đức, là đưa nhau vào chỗ chết. Chết trong tù
vì bị công an đánh đòn để đòi gia đình người bị bắt phải đưa thêm
vàng để thả ra, hay chết trên biển cả. Dân chúng lường gạt lẫn nhau,
giả vờ giới thiệu tuy dô đi: "Chỗ nầy chắc chắn, bảo đảm
100%...chỗ nầy cam đoan không bị bể....chỗ nầy tính rẻ hơn chỗ kia vì
quen biết..." Công an thì cũng muốn vừa có vàng bỏ túi vừa có
người nhẹ dạ dễ tin để bắt trọn ổ nên cũng đứng ra tổ chức bán
bãi hay cung cấp những chiếc tàu sắt củ kỹ để lừa những ai muốn đi.
Ôi thôi thì thượng vàng hạ cám, đủ loại lường gạt!
Những người ngoài cuộc có lẽ dễ thấy những chuyện nghe vô lý hoàn
toàn như thế, nhưng với những ai trong cuộc, đã cùng đường bí lối
thì ai nói sao cũng dễ tin. Nhất là khi vừa đi tù về thì nhà cửa,
vợ con đều bỏ đi, hay đã lấy người khác.
Nhưng đi là một chuyện, gặp nhiều điều rủi ro, cướp bóc, giết người,
đàn bà con gái bị hải tặc hiếp dâm hay bỏ mình trên biển cả lại là
một chuyện khác. Cho đến hôm nay, thống kê cho biết cứ hai người đến
được Mỹ hay một nước tự do nào khác là có một người bỏ mình trên
biển cả. Những buổi lễ tưởng niệm hay những buổi cầu siêu hằng năm
dành cho những oan hồn đã bỏ mình trên đại dương vẫn được tổ chức
tại các nhà thờ, các chùa chiền. Và pho tượng thuyền nhân vẫn sừng
sững trong một ngôi chùa ở quận Cam như một nhắc nhở đến thảm kịch
lớn nhất trong lịch sử dân tộc.
Ôi cái giá phải trả cho Tự Do thật là quá đắt!
Bài viết sau đây như để thắp một nén nhang kính viếng oan hồn của
tất cả những nạn nhân vượt biển đã bỏ mình trên biển cả hay trên
đất liền, sau là để tưởng nhớ đến một người bạn thân của tôi, anh
Hoàng, và cháu Bi, con trai của anh mới khoảng 10 tuổi đã mất tích
trong một chuyến vượt biên từ Đà Nẵng.
Xin cầu nguyện Ơn Trên để anh và cháu Bi, nếu quả thật đã chết trên
con đường đi tìm Tự Do, hãy yên nghỉ, vì trên chốn Vĩnh Hằng ấy anh
và cháu sẽ không còn lo âu và vướng bận gì với cõi đời tạm bợ nầy
nữa.
*
Tôi có một người bạn thuở nhỏ chơi rất thân. Nhà anh ở cạnh nhà tôi,
chỉ cách một con hẻm nhỏ. Anh nhỏ tuổi hơn tôi, học dưới tôi hai ba
lớp. Ngoài giờ học, chúng tôi và các trẻ con khác trong xóm tụ tập
trước sân nhà chơi đủ mọi trò chơi tuổi thơ. Bắn bi, u mọi, nhảy dây hay
đánh tổng, một trò chơi mà sau nầy, khi lớn lên, tôi không còn thấy ai
chơi nữa. Các trò chơi đó, anh đã hướng dẫn tôi một cách tận tình
đến nơi đến chốn. Nhà anh khá giả hơn chúng tôi nên sau mỗi lần chơi
xong, anh gọi ông già bán cà rem cây đến mua cà rem đãi chúng tôi ăn.
"Cho đỡ khát nước", anh nói.
Chúng tôi được (hay bị?) mệnh danh là "đám giặc con xóm
chùa", không hiểu tại sao? Chúng tôi chỉ ham chơi, cả ngày lêu
lổng trước sân nhà trong mùa Hè hay các ngày nghĩ học, nhưng chúng
tôi không chọc phá ai, vì chỉ sợ người lớn qua nhà mét ba má thì
chỉ có nước ốm đòn.
Tuy vậy đường "công danh sự nghiệp" của đám "giặc con
xóm chùa" chúng tôi cứ tà tà đi lên. Có lẽ đất xóm chùa thuộc
loại "địa linh nhân kiệt" chăng ? Học xong Trung Học, Tú Tài
rồi lên Đại Học, hàng xóm đã bắt đầu nhìn chúng tôi với ánh mắt
nhiều thiện cảm hơn và ngưởng mộ hơn. Ở thời điểm 1960 lúc bấy giờ,
số người đậu Tú Tài trong tỉnh chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Riêng Hoàng, bạn tôi, đậu Tú Tài 1 xong là anh thi vào ngành Cảnh
Sát. Tôi đùa: "Ông hiền khô mà đi Cảnh Sát cái nỗi gì? Ai mà sợ
ông?" Vậy mà anh lại còn chọn ngành Cảnh Sát Đặc Biệt nữa mới
khiếp chứ !
Cứ mỗi lần nghỉ hè từ Sài Gòn về là Hoàng lấy xe đưa tôi đi tăm
biển Mỹ Khê hay qua Tiên Sa câu cá mú. Trên đường về, Hoàng lại rũ tôi
ghé vào quán kem Diệp Hải Dung ăn kem và nghe nhạc Pháp. Tôi chợt nhớ
lại những cây cà rem của ông già bán kem trong xóm mà Hoàng đã mua
khao chúng tôi sau mỗi cuộc chơi thuở nhỏ. Vừa ăn kem tôi vừa nhìn
Hoàng hút Pall Mall, nhả khói ra đàng mủi một cách điêu nghệ. Hoàng
bảo tôi nên tập hút thuốc " cho có vẻ dân chơi một chút".
Hoàng tiếp:" Tôi thấy anh hiền quá, chọn nghề thầy giáo là đúng
quá rồi. Thôi, tôi không xúi anh hút thuốc hay nhậu nhẹt với đám bạn
tôi đâu. Nếu không về cô la tôi thì phiền lắm !" Hoàng rất thương
Me tôi, và mẹ của Hoàng cũng rất thân với Me tôi và gia đình tôi.
Tốt nghiệp xong, tôi đổi về dạy một trường dưới miền Tây nên ít có
dịp về lại Đà Nẵng. Những năm 1966, 1967 đó chiến tranh ngày càng
trở nên khốc liệt, quân nhân và công chức ở đâu phải ở yên đó, không
được rời nhiệm sở.
Mãi đến năm 1973 tôi mới xin đổi về dạy tại quê nhà. Hoàng và tôi
lại có dịp gặp nhau. Anh có vẻ phong trần hơn và ăn nói chững chạc
hơn. Anh đã có gia đình và có được một cậu con trai đặt tên là Bi
(chắc là để nhớ lại những lần chơi bắn bi hồi nhỏ?)
Ngày 29 tháng 3 năm 1975, Đà Nẵng bị tràn ngập dân tị nạn từ Huế và
Quảng Trị kéo vào, rồi sau đó bị bỏ ngỏ. Gia đình tôi phải di tản
vào Sài gòn. Tôi biết gia đình Hoàng còn lấn cấn nhiều về tài sản,
và vì mấy anh em của Hoàng đi hành quân khắp nơi không về kịp nên
đành phải ở lại.
30 tháng 4, sau ngày mất trọn miền Nam, gia đình tôi phải quay về lại
Đà Nẵng vì không tìm đường ra nước ngoài được. Hoàng phải đi tù như
hằng vạn sĩ quan khác. Chờ đợi và thăm nuôi Hoàng được khoảng hai năm
thì người vợ xin ly dị và giao con lại cho mẹ Hoàng nuôi.
Bi lớn lên thiếu vắng tình thương của cả mẹ lẫn cha, và mặc dù được
bà nuôi và người cô ruột nuông chìu yêu thương hết mực, cháu vẫn không
thể nào vui được. Những lần ghé qua nhà thăm mẹ Hoàng và cháu Bi,
tôi thấy mủi lòng muốn khóc khi Bi ôm chầm lấy tôi vừa mếu máo vừa
nói: "Con nhớ Ba Hoàng quá bác ơì. Khi nào thì ba con mới về hở
bác?"
Ba năm sau Hoàng được tha về. Chúng tôi gặp lại nhau mừng mừng tủi
tủi. "Mất hết rồi anh Ngọc ơi! Nước mất nhà tan là cha con tôi
bây giờ đây!" Tôi không biết nói gì để an ủi Hoàng, chỉ xin phép
bà cụ cho anh em chúng tôi ra quán uống ly cà phê ngồi tâm sự. Mẹ
Hoàng dặn: "Con nhớ dặn em đừng nói năng lung tung nghe. Em nó đang
bị quản chế và công an đang theo dõi đó. Chưa xong đâu". Hoàng hứa
với mẹ là sẽ không nói năng gì cả. Tôi cũng ngán là anh sẽ uất ức
mà lên tiếng chửi đổng vài câu là cả hai chúng tôi sẽ bị còng ngay!
Nhưng cũng may là cả hai anh em chỉ ngồi uống cà phê. Nhìn Hoàng ngồi
hút thuốc Hoa Mai, mặt buồn rười rượi, tôi cũng không biết nói gì để
an ủi anh.
Rồi cũng như nhiều sĩ quan bị tù ra, hai cha con Hoàng được gia đình lo
tìm đường vượt biên. Đi gần chục chuyến, chuyến nào cũng bị
"bể". Cũng còn may là hai cha con không bị bắt. Có lần Hoàng
và cháu Bi đến gõ cửa nhà tôi lúc 2 giờ sáng. Mở cửa ra thấy cả
hai cha con người sũng nước vì mới lặn từ sông Hàn về để trốn Công
An khi chuyến đi bị bể. Cũng may là cả hai cha con đều bơi giỏi nên đã
thoát. Sáng hôm sau tôi về nhà Hoàng lấy áo quần cho anh và cháu Bi
thay rồi chở hai cha con về!
Hoàng có một nốt ruồi đen khá lớn trên gò má. Một tháng sau gặp
lại, tôi không còn thấy nốt ruồi đó nữa. Hoàng nói khi thấy ánh mắt
ngạc nhiên của tôi: "Kể anh nghe anh đừng cười cho tôi là mê tín
dị đoan nghe! Như anh biết đó, cha con tôi đi cả chục chuyến đều thất
bại. Gia đình mẹ và chị tôi cũng đã gần kiệt quệ rồi nên bảo tôi đi
xem bói thử ra sao. Bà thầy bói trên Cẩm Lệ nói: "Cậu gặp quá
nhiều chuyện xui rủi trong gia đạo và trong việc đi đứng vì cái nốt
ruồi nằm ngay trên dòng chảy của nước mắt. Đó là nốt ruồi
"Thương phu trích lệ". Nếu muốn tôi có thể giới thiệu người
phá nốt ruồi đó cho cậu. Rồi cậu sẽ thấy mọi việc thông suốt".
Tôi không dám có ý kiến về việc phá nốt ruồi để gặp may đó của
Hoàng. Hai tháng sau không gặp nhau, tôi ghé nhà hỏi thăm thì mẹ Hoàng
vừa cười vừa khóc báo tin: "Hai cha con nó đi lọt rồi. Bây giờ
Bác chỉ còn đợi tin và điện tín nữa thôi. Có gì bác sẽ báo tin con
sau."
Tôi ra về, mừng cho Hoàng và cháu Bi đã thoát khỏi kiếp nhọc nhằn
và buồn khổ ở quê nhà. Hơn tháng sau, không thấy mẹ Hoàng cho biết
tin tức gì thêm, tôi ghé nhà vì cảm thấy tâm hồn bất an lạ thường.
Vừa bước chân vào nhà, mẹ Hoàng đã ôm chầm lấy tôi khóc oà: "
Cho đến giờ nầy, hơn 3 tháng rồi mà Bác vẫn không thấy tin tức hay
điện tín gì của cha con nó và của chuyến đi cả. Tuần trước Bác lại
nằm mơ thấy hai cha con nó về ngồi ở phòng khách, người sũng nước,
chỉ nhìn Bác khóc và không nói gì hết. Bác lạnh cả người, bật
ngồi dậy thắp nhang bàn thờ Phật và bàn thờ ông bà tổ tiên cầu xin
cho hai cha con nó tai qua nạn khỏi." Tôi cũng thấy người mình
lạnh toát, nhưng cũng cố gắng an ủi bà cụ: "Bác hãy vững tin
vào Trời Phật và tiếp tục cầu nguyện đi. Thế nào cũng có tin của
Hoàng và cháu Bi."
Cho đến lúc gia đình chúng tôi qua Mỹ, tôi vẫn không được nghe thêm tin
tức gì nữa. Nhưng tôi vẫn tin tưởng và vẫn cầu nguyện cho bạn tôi và
cháu Bi. Hy vọng là những người trên chuyến đi đó được sóng đánh tấp
vào một hòn đảo nhỏ. Và sống trên đó, nhưng không liên lạc được với
thế giới bên ngoài.Câu chuyện của người cha tìm ra được cậu con trai
của mình trên đất Thái Lan sau 32 năm biệt tích đăng trên báo chí mới
đây hay câu chuyện phỏng vấn trên đài Viet Face TV càng làm cho tôi tin
tưởng mãnh liệt hơn ở một phép nhiệm mầu nào đó.
Tôi vẫn cầu nguyện và vẫn vững tin rằng sẽ có một ngày phép lạ sẽ
đến với gia đình bạn tôi.
Nhưng nếu chẳng may có điều gì bất hạnh xảy ra trong chuyến đi tìm
Tự Do không bao giờ đến thì xin anh và cháu hãy yên nghỉ trên cõi
Bình An đó nghe anh Hoàng và cháu Bi?
Và xin anh và cháu Bi hãy phù hộ cho Mẹ và các anh chị em của anh.
Phạm Ngọc