Hôm nay,  

Cô Dâu Ở Tuổi 46

13/06/201100:00:00(Xem: 223531)

Cô Dâu Ở Tuổi 46

Tác giả: Vành Khuyên
Bài số 3201-12-28501vb2061311

Tác giả đã nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ 2005. Cô tên thật là Trần Thị Ngọc Trâm, sinh năm 1965 tại Saigon, thứ nữ một gia đình H.O. Công việc đang làm: nhân viên xã hội tại Salem Oregon. Sau đây là bài viết mới nhất.

***

Chị bạn hỏi tôi, "Ê Trâm, 46 rồi còn làm cô dâu được không Trâm"". Tôi thấy thú vị, nhìn lên hỏi chị "50 còn được chứ ở đó mà 46 không được, chị thấy ai mặc áo cưới tuổi này à"" Chị ỡm ờ ”thì ...thì người bạn trai Mỹ hỏi cưới mà chị chỉ muốn làm giấy tờ rồi sống chung thôi”. Đàn bà rõ khổ, tôi thấy khổ thật chứ không phải chơi.
Này nhé, yêu một người, muốn sống chung, thật ra đám cưới là sự chia xẻ hạnh phúc của đôi vợ chồng dù có tuổi hay không, mặc áo cưới hay không không thành vấn đề, có sự công bố trước gia đình, họ hàng, tôi thấy đã là đủ. Vì sợ lời ra tiếng vào mà phải suy nghĩ , trời, lấy chồng chứ có đi buôn gì không đúng đâu à.
Tôi được thể nói tiếp: ”Chị muốn mặc chị cứ mặc, thậm chí trong tiệc chị thay đổi ba bốn cái áo trắng đen gì tuỳ thích em cũng ủng hộ chị chứ đừng nói một cái, còn chị không muốn làm vì nghĩ chị với anh ta hiểu nhau đủ rồi, em ủng hộ luôn”. Chị cười mau mắn ”Hỏi ai cũng trả lời như Trâm thì chị đã xong lâu rồi, người này nói này, người kia nói khác, không dễ tính đâu”. Tôi kết luận với chị ”trời, đời chị chứ đời người ta đâu, người ta không chịu trách nhiệm đến đau khổ hay hạnh phúc chị có đâu, chị làm gì chị vui cho cuộc sống của chị em đều ủng hộ. Có tin vui thì báo em nhé”.
Kinh nghiệm cuộc đời cho tôi hiểu vợ chồng là duyên số chứ không phải cứ muốn là đươc. Khi còn trẻ lúc yêu, người ta có thể thề sống chết với tình yêu mà còn bỏ nhau hà rầm, khi lớn tuổi kẻ thì lao vào, người thì tránh như tránh tên thợ săn do thất bại của hôn nhân trước. Cái câu hỏi mà họ phải tự hỏi là họ có hiểu và có nghiệm ra được làm thế nào nhận dạng được tình yêu chân thật hay không vì cũng như bao hiện tượng khác những gì có thể nhầm lẫn với tình yêu nhiều vô cùng.
Trong đời sống, ngoài sách vở ra, tôi thật sự muốn cha mẹ là một nguồn chính thức khác dạy cho con cái mình biết yêu và làm thế nào để nhận dạng tình yêu thật sự. Nhiều cha mẹ cho con cái mình cái ý niệm xem như không tiền, không bằng cấp thì chớ có rớ vào con cái mình nếu con của họ là con gái. Điều đó cũng đúng, chàng trai nào mà không lo nổi cho bản thân thì đúng là còn lo được tới ai. Nhưng liệu bằng cấp và tiền bạc có mua nổi một gia đình hạnh phúc hay không. Người Việt Nam hay nói cái câu có lớn mà không có khôn. Một chàng trai có thể học giỏi, nhiều bằng cấp nhưng về việc quan tâm và quán xuyến gia đình thì không tới đâu vì có thể điều đó nằm ngoài sự quan tâm của anh ta hay trong chừng mực nào đó cũng không ngoa khi nói anh ta đã không được dạy bài học tự mình phải làm cha làm mẹ như thế nào hay phải cải tiến cách làm cha làm mẹ của cha mẹ mình như thế nào, bổ sung những điều gì mà cha mẹ mình đã không làm được cho mình.
Như tôi chẳng hạn, nhìn mẹ tôi hầu bố tôi từng bữa cơm, ngụm nước đến cả cây tăm xỉa răng sau khi ăn cơm, tôi thề mai mốt có chồng cũng làm vậy cho anh hiểu sự tận tụy của tôi với anh. Hiểu đâu à, khi tôi làm vậy anh trừng mắt ”em làm như anh con nít không bằng, để anh tự lấy nước anh uống”. Ủa, vậy là khen hay chê, làm hay không làm. Hành động đó với cha mẹ tôi là yêu thương, còn với chồng tôi đó lại là xem thường.
Tôi đã từng không làm nữa, mà thật tôi cũng không biết phải làm gì để thể hiện yêu thương ngoài việc chung giường, chung mâm với người phối ngẫu của mình. Nếu hỏi tôi tiếc gì khi còn ở chung với cha mẹ, tôi chỉ tiếc mỗi một điều là cha mẹ không dạy được tôi bài học đơn thuần là yêu thương chân thành được thể hiện ra sao. Nếu bản thân tôi được chứng kiến những yêu thương giữa cha lẫn mẹ và cả những ẩu đả cúa cha mẹ, thì liệu tôi có đủ khôn ngoan trong đời để dàn ra cho chính bản thân một đáp án đầy đủ của sự yêu thương thật sự không.

Tôi còn nhớ cứ ra đường, trong trường, anh chàng nào thích mình, thấy hợp nhãn, nói chuyện có duyên hay hay là theo và đi cùng. Chẳng thì giờ đâu mà xem xét, yêu thích hay có thì giờ cho chuyện riêng tư để tự tìm xem trong đời sống chung có thể hợp nhau không. Cỡ tôi hồi đó còn chưa biết và tự vẽ ra đời sống riêng sẽ ra sao, bao nhiêu con, ở đâu, làm gì khi lập gia đình. Viễn cảnh đó khi tôi yêu thương ai hầu như hoàn toàn không đặt ra cho tôi câu hỏi nào, yêu là yêu, lấy là lấy, không yêu thì có cho vàng cũng không lấy. Do vậy mà tôi không thích cái câu người xưa vẫn nói cứ lấy đi là hợp à. Câu đó có thể đúng với người xưa khi cả hai bị gả ép không hề biết mặt nhau mà vẫn ăn đời ở kiếp cho đến lúc cái chết chia lìa họ.
Xã hội ngày nay đã tiến hóa và văn minh hơn rất nhiều. Trong đời sống chung, nhiều mâu thuẫn, đụng chạm, không được thử thách đầy đủ để đủ sức chịu đựng trải qua những sóng gió trong đời sống chung cùng nhau, hôn nhân đổ gãy liền. Tôi cũng ghét cái câu nói, về già đời sống vợ chồng chỉ còn là tình nghĩa. Sai luôn. Tôi đã từng nhìn thấy hai ông bà cụ dắt tay nhau đi bộ mỗi chiều, đi ăn sáng cùng nhau, vẫn chăm sóc và nhìn nhau thân ái. Nhiều khi tôi còn cảm nhận cái nhìn có khi còn tha thiết hơn nhiều vì họ biết ơn trong đời sống hiện tại họ vẫn còn bên nhau và còn có nhau đến tuổi này.
Cái ông hàng xóm gần nhà tôi đến lạ. Lúc rảnh rỗi, tôi mang hai đứa trẻ nhà tôi sang chơi với ông theo lời ông yêu cầu. Mai sáng gặp ông ông lại than tôi làm vậy khiến ông buồn hơn. Trời ơi trời, tôi biết làm sao. Ông bảo lẽ ra ông phải có đời sống như vậy, con cái, vợ chồng bên nhau vậy mà không hoàn không, đời ông chỉ như một cái bóng. Cứ đứng núi này trông núi nọ cho chết. Tìm niềm vui từ niềm vui của người khác cũng là một cách. Không ai, không một ai có thể thay đổi quá khứ thì ông buồn làm gì. Nếu đời sống không cho tôi một đứa con trai và một đứa con gái như hiện tại, có lẽ tôi đã xách bị đi thiện nguyện cho một tổ chức phi lợi nhuận nào đó, không nhà không cửa như hôm nay. Thêm vào đó tôi muốn đề cập tới cái chuyện người Mỹ hay nói ”fall in ”anh” fall out” of love. Khi con cái đã lớn cũng gần nửa số cặp vợ chồng kết thúc bằng tờ giấy ly dị, họ cho răng tình yêu của họ không còn như thuở trước (làm sao được đầy đủ như trước mà so sánh chi). Hồi xuân hay triệu chứng mãn kinh của người phụ nữ đóng góp vào chuyện đó thì chỉ còn nhờ sự hiểu biết và thông cảm của cả vợ lẫn chồng chứ không thể từ một phía nào đơn độc được.
Trở lại cái chuyện cô dâu tuổi 46, chị còn mãi suy nghĩ và cho rằng đâu phải chị lấy chồng lần đầu, vả lại chị lấy người bản xứ người ta thì họ hàng bạn bè người dị nghị nhiều hơn tán đồng. Họ nói chị theo kiểu gì như là vơ bèo, vặt tép. Người bản xứ thì sao chứ, ăn thua là chồng tương lai của chị, ông ta có tốt với chị hay không; chị có tốt với ông ta hay không khi nhỡ chị hay ông có vấn đề gì về sức khoẻ mà hai người vẫn yêu thương và bên nhau. Lời của ông Toà đọc cho hai người nói theo trước khi nói I DO rất dài mà tôi chỉ còn nhớ mỗi chư õ”for sickness and for health” thật đúng vô cùng. Nó nói lên sự đồng cam cộng khổ là điều tiên quyết làm nên một đời sống vợ chồng đúng nghĩa và không ai trong hai người được quên điều đó. 
Nếu là tôi, tôi suy nghĩ về điều đồng cam cộng khổ này nhiều hơn là điều đời sống phải có đôi, có cặp. Nhưng đôi cặp gì thì cũng phải có tình yêu thương chân thành và đủ mạnh để đi suốt với người bạn đời tới cuối con đường. Dù biết rằng không ai nhìn được tương lai nhưng hiểu được lòng mình và tình cảm của mình trước khi nói I DO thì được chứ tại sao lại không được. Tôi thấy mừng cho chị vì qua những đau khổ của đời sống, chị tìm được một chỗ dựa tinh thần cho mình và mong chỗ dựa đó của chị sẽ là vĩnh cửu. Tôi nói với chị: ”Hạnh phúc cho mình chứ cho ai đâu chị, vui buồn gì cũng do mình gieo, trồng và gặt hái, chị có lòng tin cho chị thì em cũng có lòng tin cho đời sống sắp tới của chị”.
Tối qua chị báo tin cho tôi tháng tới chị sẽ là cô dâu 46 tuổi. Lễ cưới của chị sẽ tổ chức đơn giản ở một công viên, chị bạn tôi sẽ mặc áo dài trắng, chú rể người bản xứ mặc vest. Chị hỏi tôi muốn làm phụ dâu cho chị hay không, tôi bảo chị để em chạy dọn dẹp cho chị có ích hơn. Chị nghe và đồng ý.
Cô dâu 46 tuổi của em, bài viết này dành cho chị và với tình thân mong chị sẽ hạnh phúc trọn vẹn với người chị chọn tới cuối con đường đời nhé.
Vành Khuyên

Ý kiến bạn đọc
18/06/201117:53:26
Khách
Một suy nghĩ chín chắn về hôn nhân như tác giả sẽ rất hữu ích cho những người mới biết yêu.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 844,331,842
Định cư tại Mỹ từ 1994, Phương Hoa vừa làm nail vừa học. Năm 2012, bà tốt nghiệp ngành dạy trẻ tại Chapman University khi đã 62 tuổi và trở thành bà giáo tại Marrysville, thành phố cổ vùng Bắc Calif. Với loạt bài về Vietnam Museum, "Bảo Tàng Cho Những Người Lính Bị Bỏ Quên," tác giả đã nhận giải chung kết 2014. và vẫn tiếp tục gắn bó với Viết Về Nước Mỹ. Sau đây, thêm một bài viết mới của tác giả.
Tác giả là một nhà giáo, nhà báo, nhà hoạt động xã hội quen biết tại Little Saigon. Tới Mỹ theo diện Hát Ô Một từ 1990. Suốt 28 năm qua, ông không ngừng viết văn viết báo tiếng Việt, tiếng Anh. Trong năm qua, có tới 7 cuốn sách mới. Góp sức với Viết Về Nước Mỹ, ông đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ từ những năm đầu, và vẫn tiếp tục thêm bài mới.
Tác giả là một dược sĩ tại Toronto. Với bài viết đầu tiên “Hai Bà Đầm,” ông đã nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ 2011. Ba năm sau, 2014, ông góp thêm bài “Hồi Ký Của Một Người Tên Ông.” Năm 2016, thêm bài “Bà Mẹ Tây” hay “Thằng Tầu Con của Mẹ.” Sang năm 2018, thêm bài thứ tư, “Đứa Con Lai...Hải Tặc.” Bài viết mới thứ 5 “Chuyện Tình...Hải Tặc” là phần kết của câu chuyện. Bạn đọc Viết Về Nước Mỹ trên Việtbao Online chỉ cần double click vào tên tác giả ở đầu bài, sẽ thấy bài cũ của cùng tác giả. Bài đăng 2 kỳ. Tiếp và hết.
Tác giả đã nhận giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2017. Ông hiện sống và làm contractor (hợp đồng) ngành hàng không ở Vail, Arizona cho quân đội Mỹ, và từng tình nguyện tới chiến trường Trung Đông, sống trong trại lính, làm việc theo một hợp đồng dân sự. Chuyện làm việc ở Trung Đông, bài đầu đã được phổ biến ngày 4 tháng 5. Sau đây là bài viết thứ hai, chuyện của một dân sự gốc Việt từ căn cứ Mỹ tại Afganistan.
Tác giả tên thật Huỳnh Thị Huệ, 69 tuổi, đến Mỹ năm 1991 theo diện HO. hiện đang là cư dân Downey, California. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà là chuyện đau thương có thật của gia đình, khi ntgười con trai tử nạn trên xa lộ vì bị một anh Mễ không giấy tờ say rượu lái xe.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ năm 2017. Bà sinh năm 1951 tại miền Bắc VN, di cư vào miền Nam 1954, là thư ký hành chánh sở Mỹ Defense Attaché Office (DAO) cho tới ngày 29 tháng Tư 1975. Vượt biển và định cư tại Mỹ năm 1980, làm thư ký văn phòng chính ngạch tại City of San Jose từ 1988-2006. Về hưu vào tuổi 55, hiện ở nhà chăm nom các cháu nội ngoại. Sau đây là bài viết thứ tư của bà.
Tác giả dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu, đã nhận giải bán kết 2002 với bài "Tiểu Hợp Chủng Quốc" kể về nơi cô làm việc, khi khủng bố tấn công nước Mỹ ngày 9 tháng 11 năm 2001. Bài viết gần đây là ký ức Mậu Thân của cô bé thời mới lớn. Và sau đây, thêm một bài viết mới.
Từ 2005, tác giả Hoàng Đức, một nhà giáo hưu trí tại Westminster, góp bài “Dodautre tại Mỹ” và nhận giải đặc biệt Viết về Nước Mỹ. Mười ba năm sau, 2018, thêm một bài mới của Hoàng Đức 2018. Theo tiểu sử do tác giả mới tự sơ lược, tại Việt Nam, 1963-1975, ông là Giáo sư Trung học Đệ nhị cấp. Sau 1975 là mười năm thất nghiệp. Công việc tại Hoa Kỳ từ 1985: High School Teacher; College Instructor, sau đó là Social Worker. Về hưu từ 2002. Mong ông tiếp tục viết và bổ túc địa chỉ liên lạc.
Tác giả cùng hai con gái tới Mỹ ngày 27 tháng Bảy năm 2001 theo diện đoàn tụ. Mười sáu năm sau, bà hiện có tiệm Nails ở Texas và kết hôn với một người Mỹ. Với sức viết giản dị mà mạnh mẽ, tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ năm 2017. Bài viết mới của bà là chuyện tấm hình một cô bé học trò 15 tuổi. Tấm hình từng qua tay kẻ trộm, trở thành bùa hộ mạng của một thuyền nhân, với những tình tiết éo le dài gần một đời người lưu lạc.
Tác giả từng nhận giải Viết Về Nước Mỹ 2015. Ông là cựu sĩ quan VNCH, giảng viên trường Sinh ngữ quân đội, cựu tù cải tạo. Ông cũng là tác giả sách "Hành Trình về Phương Đông" do "Xây Dựng" xuất bản năm 2010. Mới nhất, là cuốn "Within & Beyond" do tác giả viết bằng Anh ngữ và tự xuất bản. Sau đây, thêm một bài viết mới.
Nhạc sĩ Cung Tiến