Ngày ấy 30 - 4 – 1975
Tác giả : Lưu Nguyễn
Bài số 3184-28484 vb3050311Tác giả Lưu Nguyễn cư trú tại Davis, CA, đã góp nhiều bài đặc biệt và từng nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ, với nhiều bài viết kể chuyện đi học, đi làm, đi thực tập làm giảng viên trong ngành thẩm mỹ tại trường Sacramento City College. Bài viết mới nhất của bà là một hồi ký về đổi đời sau ngày 30 Tháng Tư, với ghi chú “Thương tặng TrâmAnh Ph.D of Pharmacology & Toxicology.” Photo: Ảnh chụp năm 1972 với học trò trường Tân Phú I
***
Ngày ấy đã là quá khứ chìm trong 36 năm, mà sao mỗi khi nhớ đến, tôi vẫn buồn rầu, buồn thấm thía hơn khi thấy người dân sống quá đói nghèo, rất thương tâm và đáng kinh hãi với những tội ác không ngờ, đang hàng ngày xảy ra tại Việt Nam, và chỉ có xảy ra sau ngày ấy 30-4-1975.
Những ngày cuối tháng Tư, cuộc chiến Quốc-Cộng đã lan rộng đến mọi ngõ ngách tỉnh, thành. Đêm đêm ánh hỏa châu tỏa sáng trên bầu trời. Ban ngày thỉnh thoảng có những tiếng đạn pháo nổ lớn, rung chuyển cả Sàigòn. Hoang mang và lo lắng hiện rõ trên nét mặt mọi người, nhất là sau khi nghe bản tin Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức trao quyền Tổng Thống lại cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương vào ngày 21-4-75. Vừa nhận chức Tổng Thống, ông Trần Văn Hương ký sắc lệnh cấm và nghiêm phạt những Sĩ Quan, Công Chức bỏ nhiệm sở chạy tránh nạn Cộng Sản.
Một tuần lễ sau, khoảng 5 giờ chiều ngày 28-4-75, lại nghe tin Tổng Thống Trần Văn Hương bàn giao lại chức vụ Tổng Thống cho Đại Tướng Dương Văn Minh. Từ lâu, báo chí đã loan tin tướng Dương Văn Minh là anh ruột tướng Việt Cộng Dương Văn Nhật. Vậy thì khi ông Dương Văn Minh nắm quyền Tổng Thống, chúng ta cũng nên hy vọng sẽ có thương thuyết “tử tế” song phương với Hà Nội, tìm ra giải pháp ngừng lại cuộc nội chiến tương tàn giữa hai miền Nam Bắc.
Nào ngờ đâu, vào lúc 10 giờ 15 phút sáng ngày 30-4-1975. Chỉ sau 30 giờ đồng hồ nhận chức Tổng Thống, Dương Văn Minh đã lên Đài Phát Thanh Sàigòn, kêu gọi Quân-Dân-Cán-Chính Việt Nam Cộng Hòa hãy buông súng đầu hàng vô điều kiện. Lệnh này, giúp Cộng quân Bắc Việt “giải phóng” hoàn toàn lãnh thổ miền Nam một cách nhanh gọn, khỏe khoắn.
Ngày ấy, nghe Dương Văn Minh đọc lệnh đầu hàng. Tim tôi đau nhói, nước mắt mãi tuôn trào và cứ hy vọng đấy không phải là sự thật.
Trang sử oai hùng của quân dân miền Nam Việt Nam đánh đuổi quân Trung Cộng, bảo vệ thành công hai quần đảo Hoàng Sa, Trường sa của Tổ Quốc Việt Nam viết chưa ráo mực. Tại sao đã có ngay trang sử buông súng đầu hàng thật bi thảm!
Lệnh buông súng đầu hàng của Dương Văn Minh, giúp cho xe tăng bộ đội Bắc Việt ngang nhiên tự tại tiến vào Sàigòn, còn hung hãn ủi sập cánh cổng Dinh Độc Lập, một cách không cần thiết. Chia sẻ nỗi đau nhục cùng miền Nam, bầu trời ngày ấy 30-4-75 âm u ảm đạm, không có ánh nắng chói chang của ngày mùa Hạ, cuối Tháng Tư Đen.
Những lời nói ngây dại của Dương Văn Minh cứ được lập đi lập lại, xen kẽ vào là bài ca “Nối Vòng Tay Lớn từ Bắc vô Nam của Trịnh Công Sơn”. Tôi buồn bã tắt Radio, lấy xe Honda chạy đến nhà ông bà ngoại các cháu, thì được biết bà Thời, người hàng xóm đối diện đã chết vì bị trúng đạn pháo kích của Cộng quân. Bà chết đi, để lại bày con thơ 5, 6 đứa thật tội nghiệp.
Về lại nhà, thấy chiếc xe Honda dựng trong sân. Kéo cửa sắt bước vào nhà, thấy hai ông ngồi trầm ngâm ủ rũ. Anh Tứ vẫn mặc trên người bộ đồ lính tác chiến, mang phù hiệu Sư Đoàn 25 Bộ Binh trên cánh tay trái, hai bên cổ áo đã thiếu những cánh mai vàng. Anh buồn bã kể lại giờ phút đơn vị anh uất ức đến “chảy máu mắt”, chưa kịp đánh đấm một trận sinh tử với Cộng quân đã phải tan hàng rã ngũ, bởi lệnh buông súng đầu hàng vô điều kiện của thượng cấp, rồi mạnh ai nấy vứt bỏ súng đạn, tìm đường ngắn nhất chạy về với gia đình. Chúng tôi mời anh ở lại dùng bữa, anh từ chối, chỉ xin nhận bộ quần áo “dân sự” gồm sơ mi trắng, quần nâu đậm và đôi dép da của chồng tôi để “thay hình đổi dạng”, mong bảo vệ được cái mạng, về đến nhà gặp lại vợ con.
Sáng sớm ngày 1-5-1975. Sàigòn có một buổi mít-tinh rầm rộ trước Dinh Độc Lập, mừng Lễ Lao Động đầu tiên trong khí thế “lao động là vinh quang” và “như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng”...
Có bác Hồ…, Sàigòn mang bộ mặt ủ ê, thiếu sinh khí, rầu thúi ruột nghĩ đến ngày “quân đại thắng” sẽ đào tận gốc, trốc tận rễ đám “ngụy quân ngụy quyền” Sàigòn, đã khinh bỉ gọi bác Hồ kính yêu là Con Cáo gìa.
Có bác Hồ trong ngày vui đại thắng rồi, đi đâu cũng thấy những người (hay ngợm) đeo băng đỏ, chạy lăng xăng làm nhiệm vụ giữ gìn trật tự ("), thâu gom quân trang, quân dụng của lính Quốc Gia vứt bỏ trên hè phố, cũng như vênh váo hối thúc dân chúng treo cờ hai màu “xanh đỏ”, của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và hò hét vỗ tay hoan hô các đoàn quân “Giải Phóng” vào Sàigòn. Sau này khi đã “ngộ ra” những bộ mặt đeo băng đỏ, bà con gọi những tên này là lính sư đoàn 304 (30 tháng 4).
Phụ nữ Sàigòn không còn chưng diện áo dài tha thướt, váy ngắn, váy dài. Nam giới không còn lịch sự mặc áo bỏ trong quần, đeo thắt lưng gọn gàng, chân mang giày da, cỡi trên những chiếc xe Honda, Vespa chạy lả lướt trên đường phố. Người Sàigòn ai cũng tự mình co cụm lại với quần thô áo vải màu sắc tối tăm, chân đi đôi dép nhật lẹt quẹt, chưa đủ can đảm mang đôi dép râu cho đúng mốt. Gía trị của xe đạp lên như diều gặp gío, ai cũng lo sắm một chiếc làm phương tiện đi lại, thay cho xe hơi, xe gắn máy. Thì ra, phải đợi đến ngày miền Nam được “giải phóng”, cái xe đạp thổ tả ở miền Nam mới có gía trị, được coi như một gia tài lớn lao như tại thủ đô Việt Nam-Dân Chủ-Cộng Hòa. Bộ Công An-Sở Công An đã phải làm Giấy Chứng Nhận Sở Hữu Xe Đạp cho dân Hà Nội, chẳng khác nào Giấy Chủ Quyền Xe Hơi, Tàu Biển của miền Nam Tự Do.
Một buổi sáng trên đường đi chợ mua thức ăn, tôi đã đứng lại nhìn theo đoàn “quân giải phóng” đi ngang qua khu chợ, chợt thấy một người tách ra, chạy đến hỏi tôi:
- Cô nhớ em không " Tôi còn đang ngơ ngác thì “quân giải phóng” đã tự khai:
- Em là Lê Văn Ấm đây.
Lê Văn Ấm! Tôi làm sao quên được hai anh em sinh đôi giống nhau như đúc, có chung một tên rất mộc mạc dễ nhớ là Lê Văn Ấm (anh) và Lê Văn Ấm (em), hai trong số học sinh của tôi năm nảo năm nào, khi tôi dậy học trong vùng “xôi đậu” ngoại thành.
- Em mau lớn quá, vậy em là Ấm anh hay Ấm em "
- Dạ Ấm em.
- Ấm anh thế nào"
- Dạ, cũng đi bộ đội hiện nay ảnh thế nào em cũng không biết. Nhà cô ở đâu "
- Gần đây thôi .
- Cô không còn dạy ở trường cũ "
- Không, cô đổi về trường gần nhà ở đây, mấy năm nay rồi.
- Hèn chi có lần em về thăm má, ghé trường mà không thấy cô đâu, thôi em phải đi đây.
- Ừ, em đi mạnh giỏi.
Gặp Lê Văn Ấm trong đoàn quân “giải phóng”, tôi nghĩ đến những học trò khác, như Nguyễn Văn Thành, Trần Văn Quảng, Phạm Công Định, Nguyễn Văn Kiệm … đã hy sinh vì lý tưởng Quốc Gia, mà ngậm ngùi tiếc thương cho tuổi trẻ Việt Nam, sinh ra và lớn lên trong cuộc nội chiến tương tàn do “bác hồ vĩ đại” chủ mưu.
Tôi có bất ngờ khi gặp lại Lê Văn Ấm (em), nhưng không bất ngờ bằng khi gặp cô giáo Công Tằng Tôn Nữ Quế Hương ngồi bán rau muống ở chợ chiều, nhóm trên vỉa hè gần Ngã Tư Bảy Hiền. Cô giáo người xứ Huế, giọng nói êm như ru, dáng người thon thả, tóc thề buông xõa ngang vai, bàn tay xinh xinh cầm dù che. Cô rất vui tính nên mỗi khi gặp, tôi thường nói:
- Chu choa, đi mô mà cô Hương “điệu ra điệu vào” dễ sợ hỉ.
Tính ra miền Nam mới được “giải phóng” mấy ngày, mà Công Tằng Tôn Nữ đã đi bán rau muống, thản nhiên vất đi tất cả những “điệu ra điệu vào”. Cô vất dù che, đội nón lá lụp xụp. Nhưng qua cách chào mời mua rau, ai cũng có thể nhận ra người bán rau muống này, không thuộc giai cấp “con buôn, kẻ chợ”, dù cô đang thể hiện vai trò ấy, qua những bó rau muống và lời chào mời:
- Bà mua giúp bó rau non.
- Chị mua giúp bó rau tươi ngon đại hạ gía.
Miệng xinh chào mời, tay (vẫn còn) nõn nà tỉa tót lại những bó rau, mắt dán vào đấy, nên cô giáo không biết tôi đang đứng trước hàng rau muống của cô. Tôi đằng hắng sửa giọng nói như mọi khi:
- O nì, tui mua hết những bóa rau muống “điệu ra điệu vào”, không cần đại hạ gía hỉ !
- Đồ quỉ nè, mi đi mô đến đây"
- Đến nhà bà Chánh xin rau muống về ăn chớ đi mô!
- Lấy mấy bó rau ni về ăn, khỏi phải đi xin dị quá tề!
- Lấy rau của mụ mới dị quá tề, vì mụ phải đi mua. Còn đến nhà bà Chánh rau muống mọc mênh mông, lội xuống cắt đem về ăn bả còn mang ơn nhiều hỉ !
Phụ giúp Quế Hương bán hết chỗ rau muống, hai đứa tôi đến nhà bà Chánh (ông Chánh là thầy giáo biệt phái, dạy cùng trường với chồng tôi). Ông Chánh đi gõ đầu trẻ, bà Chánh ở nhà quản lý bày con và chăm bón ruộng rau muống, ngày ngày cắt bán xỉ cho bạn hàng, gom tiền sống rất thoải mái.
Mới nghe bà Chánh và Hương trao đổi gía cả bó rau bán xỉ cho bạn hàng, đã thấy hai người cùng lội xuống cắt rau đem lên. Bà Chánh lấy dây xước ra từ bẹ chuối khô, cột lại từng bó, bó rau này lớn gấp hơn 3 lần bó rau Hương bán ở chợ gía 20$ một bó. Tôi thật bất ngờ về số tiền lời kiếm được ở mỗi bó rau, và hiểu tại sao người đời đã có câu nói: “phi thương bất phú”. Những bó rau hôm nay bà Chánh tặng cho hai đứa tôi, chứ không bán. Hương hẹn với bà sáng mai đến mua ba chục bó rau.
Trên đường về, tôi nói với Hương:
- Mua bán gì có ba chục bó rau"
- Đồ ngốc, ba chục bó của bà Chánh tau xớt ra thành 100 bó nhỏ mới bán được, chớ để nguyên bó to đùng của bả, nhà ai ăn cho hết một bữa, nếu không phải là heo.
- Trời ơi, mua ba chục bó rau hết có … để tính coi 22$ x 30 = 660$, vậy mà bán được tới 100 x 20 = 2.000$ lận, lời quá xá, tính ra tương đương với “chỉ số” lương 380 của thầy, cô giáo mới ra khỏi trường Sư Phạm Sàigòn hỉ.
- Ừa, lời vậy đó, mau mau về nhà cắp thúng đi buôn đi bán kiếm lời, của đâu mà ngồi nhà ăn không ngồi rồi, lại không biết có được dạy lại hay không "
- Đừng có lo hỉ, tụi mình dạy văn hóa giáo dục hỉ, chớ đâu có dạy bắn giết mà sợ hỉ. Bằng chứng là mấy ngày trước, đã có một “chiến sĩ cách mạng” chạy đến vui vẻ chào, nhận ra tau là sư phụ của anh em nó hồi nẩm ở “18 thôn vườn trầu” hỉ,
- Hỉ, hỉ cái con khỉ ham bắt chước!
Sẵn có ruộng rau muống nhà bà Chánh, lại thêm “quân sư” Hương đốc xúi vào, nên tôi hăng hái vào nghề mua bán. Ngày đầu tiên, tôi cũng bắt chước cô Hương mua ba chục bó rau đem đi bán thử. Những bó rau muống này, nằm gọn gàng trong khung gỗ, đóng kẹp theo hai bên bánh xe đạp phía sau, được chồng tôi “thiết kế” nhại theo mẫu mã của thầy giáo Ngô Đình Toàn chồng cô Hương. Trước khi tôi xuất hành đi bán, bà Chánh đưa cho tôi cái sô nhựa, trong đó có nắm dây chuối khô và con dao nhỏ, bà nói :
- Cô lần đầu ra buôn bán, nhớ chia ra từng bó nhỏ bán 20$ như cô Hương. Rau muống non mau héo lắm, nên phải mang theo cái sô này đựng nước, lâu lâu vảy nước lên rau. Khi thấy cuống rau đã héo, thì lấy con dao này cắt bỏ chút xíu cọng rau, để bó rau nhìn như mới cắt (thì mới dùng dao cắt rõ ràng mà). Bà Chánh thật tử tế hết sức.
Chưa biết đi đâu bán số rau muống này, nhưng khi ra khỏi nhà bà Chánh, tôi trực chỉ hướng Sàigòn. Đang đi trên đường Lê Văn Duyệt chợt nghĩ đến Phương Thảo nhà ở đường Tô Hiến Thành, xế góc chợ Hòa Hưng. Thảo dậy Trung Học Đệ I cấp, thân thiết với tôi từ khi tôi dạy thêm lớp ở trường trung tiểu học THÁNH TÂM, gần nhà Thảo. Tôi đạp xe rẽ vào đường Tô Hiến Thành, ngạc nhiên khi thấy Thảo, đang ngồi bán bún riêu ở trước cửa nhà. Nhìn thấy tôi chở xe rau muống tấp vào lề đường, Thảo cũng ngạc nhiên trố mắt nhìn tôi và hỏi:
- Bà chở rau muống đi đâu vậy "
- Đi bán chứ đi đâu. Mình đang định đem vào chợ Hòa Hưng bán đấy, liệu có được không" Suy nghĩ một lúc, Thảo đề nghị:
- Khỏi phải đem vào chợ mất công, nồi bún của mình bán gần hết rồi, bà bày rau ra ngay trước cửa nhà mình mà bán cho tiện. Sẵn đây ăn tô bún đã.
- Ừ, cho mình một tô bún riêu ăn mừng, cuộc đổi đời của các cô giáo xinh đẹp.
- Rõ khéo “mèo khen cái đuôi mèo”!
- Ừ, khen cái đuôi con mèo của ông xã Thảo đó!
Thấy tôi đang loay hoay tìm chỗ dựng xe rau muống, Thảo nói:
- Bà cứ dựng xe ngay tại lề đường, trước hàng bún của mình cũng được mà.
- Ừ, phải vậy thôi, mà bà bán bún riêu từ bao giờ thế "
- Mới vài ngày thôi, nhà mình đông người đang thất nghiệp, mình thử nấu nồi bún riêu bán trước cửa nhà, nhắm vào khách là hàng xóm và các bà đi chợ Hòa Hưng. Nếu có bán ế, thì cả nhà ăn thay cơm. Nhưng không ngờ bán đắt hàng lắm, xem ra bán nồi bún riêu còn khỏe hơn đi dạy học đấy.
Đang thưởng thức tài nghệ nấu bún riêu của Thảo, thì có hai anh bộ đội đi đến, đứng lại nhìn xe rau muống của tôi. Ngứa miệng Thảo mời như trêu ghẹo:
- Rau muống mới hái, anh “đội” mua về luộc ăn cho mát ruột.
- Thế rau chị bán bao nhiêu tiền một mớ nào"
Chẳng cần hỏi tôi, Thảo cầm bó rau lên cho anh đội xem và nói:
- Bó rau này to lắm, anh đội mua giúp chỉ lấy rẻ 50 đồng thôi.
- Thế chị có tất cả bao nhiêu mớ "
Tôi trả lời:
- Ba mươi mớ.
- Ba mươi mớ thì chúng tôi mua tất cả cho chị, nhưng chị có thể viết hoá đơn nhận tiền bán rau, cho chúng tôi về trình cơ quan được không"
- Được chứ, anh cứ mua rau đi và muốn viết thế nào chúng tôi cũng viết được.
Thế là Thảo thay tôi bán rau. Nhận tiền xong, đi vào nhà xé trang vở học trò, cầm theo bút máy Paker ra hỏi tên anh đội, viết vào hóa đơn chỗ tên người mua, người nhận tiền ký tên Nguyễn Phương Thảo, đẹp như “rồng bay phượng múa”. Tôi thật không ngờ ngày đầu tiên đi bán rau muống, lại gặp may đến thế. Và càng may hơn, khi tôi và Thảo giúp đem xe rau muống vào tận “doanh trại” các anh đội (trại Đào Bá Phước BCH của binh chủng Biệt Động Quân VNCH, nằm trên đường Tô Hiến Thành gần nhà Phương Thảo). Tại đây, chúng tôi gặp đám bộ đội đóng quân ở Nha Quân Nhu của VNCH, trên đường Trần Quốc Toản, họ cầm bó rau muống lên ngắm nghía, muốn xác định “gía trị” thật sự của bó rau và đồng ý mua 50 bó mỗi ngày.
Nếu bán rau muống lời hơn 2 lần vốn, thì bán thuốc Tây “chui” lời nhiều hơn vì mua bán số nhiều và nhất là gía cả bị thả nổi. Thời gian tôi mới ra nghề (1979), viên Panadol 500mg của Hungary (giống như Tylenol của Mỹ) nén trong vỉ 10 viên, mua xỉ ngàn viên gía 2,80$ một viên, bán lại cho mấy ông bà y tá chích dạo và trạm Y Tế 5$ một viên ngon ơ, họ chặt lại người mua 9$,10$ tùy theo lương tâm mạng mỡ. Sau mua bán ở chợ, tôi còn bán thuốc trị bệnh tại nhà. Một viên Panadol 500mg tôi bán chỉ có 7$ còn tặng kèm theo Vitamine C, hay Vitamine tổng hợp, với lời căn dặn ân cần. Nhà tôi ở gần chợ, nên bà con giới thiệu nhau rất nhanh và khen cô giáo trị bệnh cảm cúm, nhức đầu, tiêu chảy rất mát tay. Thời gian đó, còn thịnh hành loại thuốc viên màu tím (lâu quá tôi quên mất tên rồi) cũng được dùng như Panadol, nhưng gía rẻ hơn nhiều vì là hàng sản xuất tại Hà Nội, khoảng chừng mấy chục xu một viên, nếu mua một thiên (ngàn viên), bán xỉ ra từ 100 viên trở lên là 1$ một viên, bán lẻ 3$. Loại thuốc này gốc gác từ Hà Nội, Tâm dặn tôi phải lấy cái “forcept” kẹp viên thuốc đốt thử, nếu viên thuốc bắt lửa cháy ngay là thuốc thật, nếu cứ trơ ra thì là bột mì đấy. “Tifo-mycine” cũng thử bằng cách đốt cháy, di nát trên ngón tay, ngửi có mùi hôi như rệp thì mới mua, v.v …
Từ khi tôi tránh xa “sư phạm” ra chợ Tân Bình mua bán thuốc Tây “chui”, tiền lương tháng của thầy giáo “nhà ta” tôi không ngó đến. Tôi còn chơi bảnh hơn nhà nước, trả lương mỗi tháng 100.000$ cho cậu sinh viên Đại Học Sư Phạm, đến nhà dạy kèm con tôi học thêm Toán Lý Hóa và Anh Văn. Tính ra lương “sư gia” dạy ít giờ mà lãnh nhiều hơn 20.000$ so với lương tháng 80.000$ trong “biên chế” chính thức của giáo viên nhà nước vào thời điểm năm1990,1991.
Chuyện ngày ấy kể hoài không hết. Tôi xin tạm dừng. Mai mốt kể tiếp. Nếu quí vị không phàn nàn:
- Biết rồi, khổ lắm, nói mãi !
Còn chuyện bây giờ sau 36 năm, xin hãy suy nghĩ đến những câu hát, mở đầu bằng hai chữ “nếu là” được phổ biến dạy cho con nít hát, sau ngày ấy 30-4-75.
-Nếu là chim tôi sẽ là loài bồ câu trắng.
-Nếu là hoa tôi sẽ là một đóa hướng dương.
-Nếu là mây tôi sẽ là một vầng mây ấm.
- Nếu là người tôi sẽ chết cho quê hương. Một ước mơ thật tử tế: mong được là người, không là ngợm. Tại sao và những ai chưa phải là người"
Nhân ngày 30-4 xin cầu chúc cho những kẻ đang cầm quyền trên quê hương Việt Nam, hãy đích thực LÀ NGƯỜl, không viển vông hứa hẹn NẾU LÀ NGƯỜI tôi sẽ chết cho quê hương, không chết cho lợi danh, không tham quyền cố vị, không gian nhân hiệp đảng, không bán nước, không giết hại dân lành vô tội vạ nữa.
Lưu Nguyễn
Trước ngày 30-4-75, tôi cũng từng làm cô giáo dạy lớp mẫu giáo trường Mạnh Mẫu, rồi làm công chức, rồi sau cùng làm cho DAO (thuộc Bộ Quốc Phòng Mỹ) ở 176 Hai Bà Trưng Saigon. Vốn là vợ của sĩ quan QLVNCH, tôi sinh cháu thứ tư được đầy tháng thì chồng phải vào tù với mỹ từ "học tập cải tạo" từ Nam ra Bắc rồi vào Nam và được tha về sau 10 năm xa cách. Sống nuôi 4 con bé dại, còn đi học, và thăm nuôi chông ở tù suốt 10 năm bằng nghề bán ổi, chợ Tân Bình buổi sáng. Chiều bán dưa chua chợ ông Tạ và có một số người bảo nhau: phải mua dưa của bà thiếu tá ngay ngã ba ông Tạ mới ngon... Sống với cộng sản có nghề nào bền đâu. Tôi xoay qua buôn gạo, buôn thịt từ Mỹ Tho về Sài Gòn. Dù gạo hay thịt tôi phải bó vào bụng, vào ngực, vào đùi thì mới thoát, không thì bị tịch thu hàng mà còn bị ở tù nữa... Ôi! nói sao cho hết doạn trường một nắng, hai sương của tôi cũng như hầu hết những người vợ của tù cải tạo sau biến cố đổi đời !!!. Giờ nghĩ lại tôi không tưởng tượng nỏi tại sao mình lại có thể sống sót với những thăng trầm ấy.
"Ngày Ây 30-4-75" của tác giả Lưu Nguyễn là một tự chuyện hay nhất tôi dược đọc trong dip kỷ niệm 36 năm mất nước. Tôi ước mong quê hương Vietnam sẽ có tự do dân chủ trong một ngày thật gần như các cuộc cách mạng hoa lài đã lật đổ hai nhà độc tài của Ai Cập và Tunisia.
Xin cám ơn tác giả Lưu Nguyễn đã chia sẻ cuộc đời giáo chức sau ngày mất nước. Tác giả đã diễn tả thật li kỳ, sống động về sự mưu sinh vất vả của một nhà mô phạm với những tình tiết mà lần đầu tôi mới biết. Tôi ươc mong bài nầy sẽ được chọn in vào sách VVNM 2011 để làm tài liệu trong kho tàng văn học cho những thế hệ trẻ sinh ra và lớn lên ở Hoa Kỳ.