10 Năm Đọc Lại: Ông Ba Đau Khổ
Người viết: Bồ Tùng Ma
Bài 2002, đọc lại.Vb5080510
Nhân kỷ niệm 10 năm Viết Về Nước Mỹ, mời đọc lại một truyện ngắn của Bồ Tùng Ma viết từ năm 2002. Tác giả tên thật là Nguyễn Tân, 60 tuổi, cựu sĩ quan, định cư tại thành phố Glendale, hiện làm việc tại một dịch vụ di trú ở Los Angeles. Sau giải bán kết 2002, tác giả nhận thêm giải Việt Bút 2008 và là thành viên Ban Tuyển Chọn Chung Kết.
*
Con chó Lucky nuốt miếng thịt bò kêu ực một tiếng, chẳng cần qua " thời kỳ quá độ " nhai, xong đưa mắt hau háu nhìn ông Ba, chờ ông đưa miếng khác. Ngay cả khi sắp nuốt nó cũng nhìn ông như muốn nhắc nhở ông đừng quên nhiệm vụ.
Không hiểu sao con chó này ăn nhiều như vậy. Suốt đời nó hình như chẳng có cái khoái nào khác hơn là ăn. Nếu con người ta ở Mỹ mà chỉ có mỗi cái khoái ăn như nó thì thật là hạnh phúc. Nhưng ở Việt Nam không phải như vậy đâu nghe! Nghĩ đến đây, ông Ba định đưa thêm cho nó một miếng thịt, bỗng bỏ tay xuống, làm con chó nhép nhép miệng nhìn ông một cách bực mình. Mặc kệ nó. Ông chiều ý con bé Lai săn sóc con chó, chớ chẳng ưa con chó chút nào cả. Ông nghĩ đến con Bích La, con chó mà ông xem như một người thân, nhưng không thể đem nó đi theo được.
Ông Ba còn có tên là Ông Ba Đau Khổ vì vẻ mặt ông lúc nào cũng đăm chiêu, nhăn nhó, dù ông rất hiền và dễ tánh. Sau khi vợ con đều chết vì một trái đạn pháo kích của "giải phóng" rớt trúng nhà, ông sống cô độc một mình trong cái chòi nhỏ ở Gò Vấp bằng nghề đạp xích lô.
Gần ngày 30 tháng 4 năm 1975 ông nghe lời người ta, bán chiếc xích lô. "Rồi đây không ai làm tôi mọi cho ai cả. Ai là người ngồi phè phỡn trên xe để người kia đổ mồ hôi ra đạp. Vả lại với khoa học kỹ thuật tiên tiến, ai dùng loại vận chuyển thô sơ này nữa". Các người lạ từ đâu thỉnh thoảng ghé vào xóm rỉ tai như vậy. Ông không ưa gì những người này, nhưng ông nghĩ mình phải theo thời, không lẽ nhà nước tương lai cấp cho mỗi người dân một cái ô-tô con mà ông lại giữ chiéc xích lô.
Nhưng sau ngày "giải phóng", cũng như phần lớn những người dân trong xóm, ông càng ngày càng nghèo đi, phải kiếm sống bửa đói bửa no bằng cách làm các việc lặt vặt cho những gia đình lân cận. Có thể nói ông là người nghèo nhất Việt Nam, nghèo hơn cả những người ăn xin vì những người này có tiền đánh chén sau một ngày lao động không vinh quang chút nào cả, bằng cách ngửa tay trên các vỉa hè, còn ông thì không chịu đi ăn xin.
Việc nhậu nhẹt là việc ông ít khi mơ tưởng đến cho đến một hôm xin được một con chó nhỏ. Ông định nuôi con chó này làm bạn qua ngày, đợi đến khi nó đủ da đủ thịt làm một bửa nhậu trả lễ cho những kẻ từng đãi ông ăn. Thật ra ông có thể nuôi con gà, con vịt để trả lễ, nhưng xóm ông ở là xóm có " truyền thống " ăn thịt chó, nên ông muốn chiều ý họ. Họ nói thịt chó ăn mát, có nhiều vị thuốc, lại "bắt" rượu. Ông nghĩ con chó này chắc cũng phải tốn một lượng ba-xi-đế đến ba lít, nên ông đặt tên nó là Ba Lích. Sau đó theo lời Năm Xuân, kẻ hay chữ nhất trong xóm, ông sửa lại tên con chó thành Bích La, nói lái hai chữ Ba Lích.
Chỉ trong vòng mấy tháng Bích La đã có da có thịt thấy rõ. Không biết nó lấy da thịt này ở đâu ra vì ông cũng chẳng có gì để bỏ vào miệng cho tạm đầy bụng, nói gì đến việc cho chó ăn. Con chó càng lớn trông càng dễ thương. Nó làm đủ trò khiến ông Ba rất vui. Tối lại nó trèo cả lên giường. gát đầu vào chân ông ngủ. Có ai đến lớn tiếng với ông, nó gầm gừ với người đó như sẳn sàng chết để bênh vực ông. Vậy nên mỗi lần nghĩ đến việc định nuôi nó để ăn thịt, ông thấy mình tàn nhẫn quá và càng thương nó hơn.
Một hôm Bích La vắng nhà nguyên hai ngày. Khi về nó "dắt" theo một con bé chừng 7 tuổi, da trắng tóc vàng mắt xanh, mặt mày nhem nhuốc, áo quần lôi thôi. Con bé theo con chó vào nhà và nhìn ông ăn cơm. Ông nhường phần cơm vô cùng đạm bạc lại cho con bé. Ăn xong nó ngủ một giấc đến chiều. Chạng vạng tối con bé đi ra ngoài, nửa giờ sau trở về bày lên chiếc giường tre đủ thứ đồ ăn như bánh mì, khoai , chuối... Ông hỏi nó lấy các thứ này ở đâu ra. Con bé nói nó xin của mấy ông ăn xin. Ông la và đuổi nó đi, nhưng hôm sau nó lại làm y như cũ. Ông mặc kệ, coi con bé như một con chó thứ nhì. Ông sửa soạn cho con bé một chỗ ngủ cạnh ông. Tối tối nó ôm con chó ngủ. Ông không hề thắc mắc nó là con ai, từ đâu đến, tại sao con chó lại gặp con bé và "dắt" nó về. Ông chỉ biết nó là "tàn dư của đế quốc Mỹ", một đứa con lai.
Trước kia ông đi xích lô, gặp mấy anh "đế quốc" này, cũng có anh ba trợn thật, nhưng phần đông đều tử tế, thường cho ông thêm tiền; chớ không như mấy anh "giải phóng", hay đi xe chùa, nói là đi công tác. Bây giờ mình có nuôi con nhỏ lai này cũng là để trả ơn, biết đâu một trong những anh "đế quốc" cho thêm tiền mình là cha con bé này. Ông nghĩ vậy và đem mấy người chứng ra phường nhận con bé làm con nuôi. Ông sắm cho nó một khay thuốc lá và kẹo bánh để nó mang đi bán rong.
Bé Lai càng ngày càng lớn, ngoan và xinh. Lúc bấy giờ là khoảng thời gian có chương trình con lai được đi định cư tại Mỹ. Người ta đổ xô đi tìm con lai, đi mua con lai. Người ta giữ con lai như giữ của gia bảo, có khi chúng bị nhốt như nhốt tù. Có nhiều người đến gạ gẩm ông Ba bán bé Lai cho họ. Họ nói họ có nhiều cách "sang tên" và chịu trả những món tiền mà ông Ba không bao giờ dám mơ ước đến, lại đem những quần áo đẹp và đủ thứ quà cáp đến dụ bé Lai, nhưng cả ông Ba và bé Lai đều không chịu. Hai người đã quen sống với nhau, xem nhau như ruột thịt rồi. Vả lại, bộ ông không biết đi Mỹ sao"! Những ngươì mua bé Lai không được, đâm ra cáu. Có người nói càn:
- Ông đã trên 70 rồi, ai mà cho ông đi. Ông qua bên đó báo đời Mỹ hả!
Có người lại rất bất lịch sự:
- Ông Ba Đau Khổ ơi, ông đi Mỹ uổng quá! Để dành cho người khác.
Ông Ba giận lắm và càng quyết chí đi Mỹ. Ông phải làm một cuộc đổi đời cho chính mình. Sống trong bất cứ chế độ nào, thực dân, quốc gia, xã hội chủ nghĩa, ông đều thuộc loại mạt rệp. Mấy thằng cha thuộc loại như ông, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, có người được ngồi bàn giấy dù không biết chữ, làm ông này ông nọ, có người làm lớn cho đến ngày nay, cũng có người chỉ làm vài tháng rồi nằm nhà chưởi: " Tổ cha tụi xét lại! Bác Hồ còn sống, đâu có thế này". Nhưng dù sao họ cũng đã có ít nhiều danh phận; riêng ông vẫn là Ông Ba Đau Khổ. Ông thấy chỉ có nước Mỹ mới có thể thay đổi phần đời còn lại của mình, dù là một phần đời ngắn ngủi. Ông càng quyết tâm đi Mỹ hơn khi Nam Sún từ Mỹ về thăm quê hương. Chỉ mới cách đây hai năm anh ta còn thuộc loại cùng khổ trong xóm này; hôm nay từ Mỹ trở về, Năm Sún đã trở thành một Việt Kiều hết sún và hết hom hem. Anh ta đi thăm khắp xóm với bộ đồ ngắn rất xuề xòa, nhưng càng xuề xoà trông anh ta càng giống Việt Kiều. Sau đó Năm Sún ngả nguyên một con bò đãi chòm xóm. Vai mang máy ảnh, tay cầm chai nước lọc, lưng thắt túi Viêt Kiều, Năm Sún đi tới đi lui, chỉ huy người này xào món này, người kia nấu món nọ trong những cái chảo lớn, trông thật oai. Dù đã 40 tuổi, nhưng Năm Sún cũng được mấy cô 17,18 nhìn với cặp mắt ái mộ và đắm đuối. Nhưng anh ta đâu thèm để mắt đến họ. Anh ta về thăm xóm cùng với một cô rất trẻ đẹp, má phấn môi son, mà anh ta mới vừa quen ở thành phố Hồ Chí Minh. Oai hơn nữa, Năm Sún được phường mời dự họp về đầu tư, ngồi ngất ngưỡng bên cạnh ông chủ tịch. Nghe nói bên Mỹ Năm Sún giàu lắm, làm chủ đến . . . hằng mấy chục siêu thị!