30 Tháng Tư: Cơn Ác Mộng
Tác giả: Lưu Thái Dzo
Bài số 2893-28193-vb2051710
Tác giả đã góp một số bài viết về nước Mỹ đặc biệt. Trước 1975, ông là sĩ quan trưởng phòng tâm lý chiến tại sư đoàn 25, từng di tản đường bộ từ Củ Chi về Saigon khi miền Nam hấp hối. Sau 13 năm tù cộng sản, năm 1991, ông và gia đình định cư theo diện H.O. và hiện là một cư dân cao niên tại Houston. Sau đây là bài viết của ông dành cho dịp kỷ niệm 35 năm ngày miền Nam sụp đổ.
***
Trong ngày 30-4-1975, tôi vẫn còn là Sĩ Quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, phục vụ tại Sư Đoàn 25 Bộ Binh với chức vụ Trưởng Phòng Tâm Lý Chiến. Đa số quân nhân các cấp vẫn kiên trì ứng chiến, mặc dầu suốt đêm 27 rạng ngày 28-4-1975, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn ở Củ Chi đã hứng chịu những trận mưa pháo khủng khiếp, liên tục.
Khoảng 10 giờ sáng ngày 28-4-1975, tuyến phòng thủ chính bị chọc thủng. Sĩ quan và binh sĩ trong doanh trại bắt đầu di tản. Tôi nhắm hướng Tân Phú Trung, đi bộ theo đường làng để về Sài Gòn. Đến gần Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung thi bị bắt giữ cùng với một số chiến hữu. Sau đó, tôi được thả ra và cấp "Giấy Phép" về Saigon trình diện cái gọi là "Ban Quân Quản".
Hôm nay, hồi tưởng biến cố 30-4-1975, tôi trình bày vài dòng thô thiển nói lên tâm tư, tình cảm đích thực của tôi lúc bấy giờ, không ngoài mong muốn góp phần tư liệu nhỏ nhoi bổ sung trang bi sử Dân Tộc.
Ra khỏi căn cứ Củ Chi, tôi vẫn còn sợ chết, cái chết có thể đến với tôi vì tên bay, đạn lạc, hoặc bị Việt Cộng bắt và giết . Tuy nhiên, mức độ sợ sệt không còn cao và mãnh liệt như trước. Thay vào nỗi sợ hãi là hoang mang cực độ.
Sáng ngày 30-4-1975, sau khi được thả khỏi Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, tôi vẫn cuốc bộ, nhưng theo quốc lộ 1, lúc bấy giờ đã nằm trong vòng kiểm soát của Cộng Quân. Dọc đường, tôi thấy rải rác đây đó xác chết co quắp của anh em binh sĩ, Nhảy Dù có, Biệt Động Quân có, Bộ Binh cũng có. Ngoài ra, trên bầu trời sáng hôm đó, một chiếc trực thăng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bị Việt Cộng bắn trúng, bốc cháy và rơi xuống đất.
Năm 1968, đầu Tết Mậu Thân, trong cái gọi là "Tổng tấn công-tổng nổi dậy" do bọn Việt Cộng chủ trương, quân ta đã anh dũng chiến đấu và chiến thắng địch một cách vẻ vang. Cuộc chiến Quốc Cộng tiếp diễn. Trong bất cứ trận đánh nào, cán cân thắng lợi cũng nghiêng về phía Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Một Quân Lực được trang bị đầy đủ vũ khí, quân dụng và nhất là tinh thần chiến đấu cao độ, bất khuất. Một đạo quân hùng mạnh như thế, bổng nhiên tan rã một cách mau lẹ, bất ngờ.
Trước mắt tôi, thảm trạng diễn ra rõ ràng, cụ thể với 2 hình ảnh khác biệt, đối nghịch nhau như trắng với đen: bộ đội Cộng Sản, trên quốc lộ 1, ồ ạt tiến tới trong lúc quân ta rã ngũ, cởi bỏ vũ khí, quân phục, tìm đường lui vào bóng tối. Tôi bước đi trong nỗi hoang mang vô cùng tận. Bụng đói cồn cào, nhưng tôi không buồn nghĩ đến việc ghé quán ăn, uống cạnh quốc lộ vẫn mở cửa đón khách. Tâm trí tôi hoàn toàn rơi vào rối loạn, hụt hẫng. Nỗi hoang mang càng gia tăng khi tôi được biết lệnh "Đầu hàng Cộng Sản" do Đại Tướng Dương Văn Minh, cầm đầu Chính Phủ mới, công bố. Thực sự, lúc bấy giờ, có thể nói tôi không còn tỉnh táo để tìm hiểu về nguyên nhân đưa đến sự sụp đổ nhanh chóng của Việt Nam Cộng Hòa cả Hành Chánh lẫn Quân Sự.
Trong ngày30-4-1975, ngoài nỗi hoang mang trước cảnh Miền Nam bị bức tử, tôi còn đau buồn khôn tả vì gia đình tôi đã không "thoát đi" được như mong muốn. Vừa buồn đau, vừa băn khoăn , lo âu về cuộc sống tương lai của vợ con.
Trưa 30-4-1975, tôi về đến Saigon. Bước vào nhà, tôi mừng vì thấy gia đình bình an vô sự. Một vợ, 6 con hiện diện đầy đủ. Họ nhìn tôi với vẻ ngạc nhiên vì thấy tôi mặc bộ thường phục dơ bẩn, nhàu nát, trông không giống ai. Một tiếng nói ngắn gọn bật ra khỏi miệng "bà xã" với giọng trầm buồn: Bố về! Đứa con gái út 3 tuổi chạy đến, ôm chầm lấy tôi. Tôi bế nó lên, vừa hôn hai bên má nó, vừa ngồi xuống một trong bốn ghế nhựa thấp bên cạnh chiếc bàn vuông đặt sát bức tường ngăn phòng khách với nhà bếp. Vợ tôi đi ra phía sau nhà một lúc, rồi khệ nệ bưng mâm cơm có dĩa thịt gà luộc, đặt trên bàn và nghẹn ngào nói trong nước mắt: Đây là bữa ăn thịnh soạn cuối cùng dành cho bố! Tôi òa lên khóc. Sáu đứa nhỏ khóc theo. Tôi phân phát cho mỗi đứa một miếng thịt gà trước khi chậm rãi nhai trệu trạo vài chén cơm với rau xào, cá mặn hoặc canh có nêm bột ngọt.
Gia đình tôi, trong phút chốc, rơi vào hoàn cảnh bi đát. Tôi xót thương vợ con tôi và băn khoăn, lo lắng về cuộc sống của họ. Bà xã tôi nguyên là một nữ sinh, lúc bấy giờ mới 34 tuổi, không có nghề nghiệp chuyên môn. Sáu đứa con còn thơ dại. Đứa lớn nhất 15 tuổi, và nhỏ nhất, 3 tuổi. Cột trụ gia đình đã gãy. Lấy gì chống đỡ trong tình huống bình thường, chứ chưa nói đến cuồng phong, bão tố"
Từ xót thương, lo âu, tâm trí tôi đi tới tức giận chính mình vì chương trình "Ra Khơi" bất thành. Vợ tôi cho biết đã chuẩn bị chu đáo chuyến "hải hành". Mỗi đứa con sẽ đeo nơi cổ tay một bảng tên bằng kim loại ghi rõ lý lịch để đề phòng trường hợp bị thất tung. Mọi việc đã sẵn sàng. Chỉ chờ tôi về là "xuống tàu". Đơn vị tôi đồn trú tại Củ Chi. Đường xuôi, ngược Saigon rất thuận tiện. Tôi nghĩ rằng tôi không thể bỏ ngũ khi Vị Tư Lệnh và hầu hết Sĩ Quan Tham Mưu kiên trì bám trụ tại đơn vị. Tôi quyết nêu cao tinh thần phục vụ và bảo toàn danh dự một Sị Quan, hay hành động của tôi chỉ là thái độ, cung cách mà người đời thường gọi là"Quân Tử Tàu""