Nếu Tôi Còn Một Chân
Tác giả: Sapy Nguyễn Văn Hưởng
Bài số 2856 -1628926- vb6050210
Sapy Nguyễn Văn Hưởng, cư dân San Diego, là tác giả đã hai lần nhận giải Viết Về Nước Mỹ. Lần thứ nhất là bài "Hoa Ve Chai", giải bán kết năm 2001. Năm 2004, ông nhận thêm giải chung kết với bài "Giọt Nước Mắt", chuyện kể về việc một kiến trúc sư gốc Việt thiết kế xây dựng Đài Tưởng Niệm trong Trung Tâm Học Viện Thời Chiến Việt Nam Bang New Jersey. Tại Hoa Kỳ cũng như khi có dịp về thăm Việt Nam, ông Hưởng là người đặc biệt quan tâm tới những đồng đội cũ, đặc biệt là các thương phế binh Việt Nam Cộng Hoà ở quê nhà hiện nay. Sau đây là bài viết của ông trích từ báo xuân Việt Báo Tết Canh Dần 2010, hiện đang phát hành khắp nơi.
***
Trong một lần về thăm đất ngàn năm văn vật, tôi ngạc nhiên khi đọc cái địa chỉ ngôi nhà bà con của một người bạn thân, nhờ tôi đem lá thư từ Mỹ về trao tận tay cho họ. Tôi những tưởng khó mà tìm ra được, bởi nào là tên đường, tên ngõ rồi thêm cả tên ngách nữa. Ngờ đâu anh tài taxi chỉ liếc sơ qua, rồi vừa chạy vừa dò tìm đường bằng mắt, bằng miệng độ một lúc, là đưa tôi đến ngay trước ngõ vào nhà.
Nhắc đến chuyện đường xá khiến tâm trí tôi lại hiện lên hai câu vè như lời ca dao, được lưu truyền trong dân gian sau ngày đường phố Sài Gòn bị thay tên: "Nam Kỳ Khởi Nghĩa" tiêu "Công Lý / "Đồng Khởi" vùng lên mất "Tự Do"
Trong số thương binh mà anh bạn Nguyễn Sanh Biên nhờ tôi ghé lại thăm trong chuyến về nước lần này. Chỉ có mỗi cái địa chỉ của người đồng đội Nguyễn Xuân Khai là rõ ràng, với đầy đủ mọi chi tiết số nhà, tên đường, khu vực, phường khóm, tỉnh thành... Hơn nữa, tôi đã từng có thời sống ở Tây Đô, nên tôi tin việc tìm kiếm sẽ hết sức dễ dàng.
Xe xuống đến Cần Thơ lúc bụng tôi đã đói meo. Trong khi nhà tôi lo thuê mướn phòng trọ. Tôi lôi quyển sổ tay ra, nhẩm đọc lại mấy chi tiết về người thương binh mà chúng tôi định tìm gặp. Tôi cố nhớ, nhưng không tài nào nhận ra con đường ghi trong cái địa chỉ ấy nằm ở nơi nào. Nên lúc gởi lại chìa khóa phòng cho cô nhân viên khách sạn, tôi liền hỏi thăm:
- Đường Trần Quang Diệu có gần đây không cô"
Cô ta vui vẻ đáp:
- Chú biết "Ngã Ba Lộ Tẻ" không" Trần Quang Diệu là con đường đó, đó chú.
Bốn tiếng "Ngã Ba Lộ Tẻ" thân thương giúp tôi nhận ra ngay nơi mình muốn đến, và cũng khiến tôi bỏ luôn ý định dạo quanh bến Ninh Kiều trong buổi chiều hôm ấy.
Tôi liền bàn với nhà tôi:
- Cơm nước xong mình đón xe lôi đi tìm thăm ông Khai ngay. Em nghĩ sao"
Vợ tôi gật đầu tán đồng, còn chú tài dương to đôi mắt ngạc nhiên thắc mắc:
- Sao không để con đưa cô chú đi luôn cho tiện"
Chú tài tuy khá thân thiết, tín cẩn vì là người từng đưa đón chúng tôi trong mấy chuyến về nước trước đây. Nhưng chú còn quá trẻ, làm sao có thể thấu hiểu hết bao nỗi ưu tư lo lắng của một người muốn tìm lại đồng đội mình ngày trước. Đột ngột đến thăm một thương binh, tôi sợ sự có mặt của mình, chẳng những không đem lại ích lợi gì, mà còn khuấy động cuộc sống thường nhật và biết đâu, còn gây rắc rối, phiền toái cho họ... Riêng bản thân mình, rất dễ bị nghi ngờ, quy chụp là có "âm mưu phá hoại"... rồi mang họa vào thân.
Về đến miệt Hậu Giang, tôi thích đi xe lôi, một phương tiện chuyên chở đặc thù của vùng sông nước. Ngồi xe lôi tuy không êm ái như xích lô, nhưng nó chạy nhanh hơn và không gây cho tôi cái cảm tưởng là mình bóc lột sức lao động người khác. Hình ảnh những chiếc xe gắn máy lôi theo cái thùng phía sau chở chật cứng người, gợi nhớ lại trong tôi bao kỷ niệm của một thời đã qua. Nhưng tôi lại muốn nó sớm biến mất, bởi đó như một biểu tượng cho cái nghèo khó triền miên của người dân nước mình.
Chỉ đọc lướt qua cái địa chỉ tôi trao, anh lái xe lôi tuổi còn rất trẻ ngã giá ngay:
- Cả đi lẫn về, chú Hai cho con 30 ngàn được không"
Tốn chưa tới 2 đô la, vừa giúp tôi đi kiếm nhà, vừa cho tôi tìm lại chút kỷ niệm thời xa xưa, thì còn gì để tôi cò kè bớt một thêm hai. Tôi gật đầu, đưa tay đỡ nhà tôi bước lên. Mỗi con đường chiếc xe lôi chạy ngang qua, đều gợi lên trong tôi biết bao kỷ niệm của một thời sống nơi thành phố này. Tuy tôi không còn nhận ra mấy hàng quán cũ, nhưng làn gió mát tạt vào mặt tùy theo nhịp tay ga lên xuống của người lái, cũng khiến tôi bồi hồi.
Lúc chiếc xe dừng lại chờ đèn xanh hơi lâu, tôi nhận ra mình đã tới Ngã Ba Lộ Tẻ, và mắt tôi cũng vừa đọc được cái tên Trần Quang Diệu, treo trên các bảng hiệu hàng quán ven đường. Chạy thêm độ một lúc, anh lái xe kêu trời luôn miệng vì mấy con số nhà "khi trồi khi sụt" cứ lung tung cả lên. Vợ chồng tôi cũng chia nhau, người nhìn bên phải kẻ ngó sang trái phụ giúp anh. Chiếc xe chạy hết quãng đường nhựa bằng phẳng, đến đường trải đá lổm chổm, qua tới đường mòn vắng vẻ, mà vẫn chẳng thấy con số nhà tôi muốn tìm đến nằm ở phương nào. Tới khi trời tối mịt, đường càng lúc càng nhỏ hẹp lầy lội, làm chiếc xe dằn xóc nhiều thêm. Chúng tôi phải bám thật chặt vào thành xe, mới tránh khỏi bị văng xuống đường. Tiếng chó đua nhau sủa vang, mỗi khi chú tài dừng xe lại để nhìn cho rõ số nhà hay tìm người hỏi thăm. Đi kiếm một địa chỉ nơi thị xã, mà chẳng khác chi việc tìm nhà bà con trốn vùng kinh tế mới trở về thành phố.
Tới lúc nhà cửa thưa dần, đường sá nhỏ hẹp đến nỗi xe không thể nào chạy thêm được nữa. Tôi đành bảo anh lái cho xe quay trở lại và không quên an ủi, cám ơn việc anh đã hết lòng giúp tôi tìm nhà, bằng lời hứa trả thêm tiền công. Lúc trở ra tới đường lớn, anh liền đề nghị:
- Hay để con chở chú thím Hai lại công an phường hỏi"
Tôi lắc đầu:
- Thôi, anh cho tôi về chỗ trọ, trời cũng khuya rồi, có tìm ra nhà chắc họ cũng đã ngủ, đâu trò chuyện gì được nữa!
Sáng sớm hôm sau, tôi bảo chú tài xế đưa chúng tôi tới Ngã Ba Lộ Tẻ, để từ đó vợ chồng tôi vừa đi vừa tìm nhà vừa đón xe lôi cho đỡ mất thời gian. Tôi thầm nghĩ, trời sáng tỏ việc tìm kiếm sẽ dễ dàng hơn. Nhưng cả xe lôi lẫn ngôi nhà tôi muốn tìm vẫn chẳng thấy đâu. Dừng bước lại hỏi thăm, mỗi người chỉ mỗi hướng, chẳng biết lối nào mà đi. May mắn thay, vợ tôi lại vào đúng ngay nhà ông trưởng khu vực để hỏi. Ông ta cười rồi lắc đầu bảo, đường Trần Quang Diệu mà chúng tôi muốn tìm, là một con đường khác, nằm dọc theo bờ sông dưới chân cầu Bình Thủy. Nghe đến đấy, tự nhiên hai tiếng "trời ơi" từ trong miệng tôi vọt ra. Tôi thật không tài nào hiểu nổi, tại sao trong cùng một phường, lại đặt hai con đường trùng một tên danh nhân trong sách sử" Sau cái vấn nạn tìm đường, tôi còn biết thêm, xe lôi chỉ được phép chạy từ sau 5 giờ chiều đến khi trời rạng sáng, còn ban ngày bị cấm hẳn. Tuy hay biết muộn màng về sự việc này, nhưng cũng đỡ phải tiếp tục vừa đi vừa ngóng đợi xe. Tôi tự an ủi, nhờ vậy mà chúng tôi có một buổi sáng đi bộ thể dục đáng ghi nhớ trong đời.
Trở ra tới ngoài xe, sau khi nghe nhà tôi kể lại chuyện tìm xe lôi, tìm nhà, nhìn những giọt mồ hôi còn lấm tấm trên mặt, chú tài xế lắc đầu cười cảm thông, mở máy lạnh lớn thêm lúc cho xe chạy đến cầu Bình Thủy. Sự mệt nhọc tan biến ngay khi hàng chữ "Trần Quang Diệu, Khu Vực 8, Phường An Thới, Thị Xã Cần Thơ" vẽ trên một tấm bảng hiệu ở ngay trước mặt. Nhìn con đường nhỏ bé, đông đúc người qua kẻ lại, tôi nghĩ nên gọi nó là "ngõ" hay "ngách" giống như người Hà Nội" có lẽ đúng hơn. Dán mắt vào mấy con số nhà treo trên các bảng hiệu, tôi mừng thầm và hy vọng, mình sẽ không còn bị lạc nữa, bởi các con số đã thay đổi dần theo một thứ tự nhất định.