TRỜI HỒNG HỒNG, NẮNG TRONG TRONG
Tác giả: Phương Toàn
Bài số 2507-16208584 vb511509
Tác giả tự sơ lược tiểu sử: Cựu thợ lái máy bay chuồn chuồn ở Căn Cứ KQ Phù Cát - Bình Định, cựu tù chính trị, đến Mỹ từ 1980, hiện an cư lạc nghiệp tại Garden City, Kansas. Ông đã góp một số bài đặc biệt và nhận giải thưởng Viết Về Nước Mỹ từ mấy năm trước.
Bài viết sau đây trích từ báo xuân Việt Báo Tết Kỷ Sửu, 2009: một tự truyện mới viết của Phương Toàn, kể bằng giọng vui vẻ hiếm có, từ chuyện lấy vợ, làm đám cưới chui ở quê nhà tới chuyện vượt biển rồi định cư tại Mỹ.
***
Cái vòng lấy vợ cong cong
Kẻ hòng ra khỏi người mong bước vào
(Ca dao mới)
*
-Bố không lấy vợ cho tôi, tôi không ra ruộng nữa!
Đó là lời một anh Vọi ở quê tôi xửng cồ với bố, khi ông than phiền dạo này sao thấy anh biếng nhác việc ruộng nương.
Một anh khác phiền nhiễu xóm làng hơi nhiều, mẹ anh tính cột chân anh lại bằng một người con gái:
-Mày thích ai, bảo mẹ, mẹ đi hỏi cho con ạ.
Anh ta tuyên bố:
-Một trăm câu nói, không bằng tí khói xe Honda.
Chí lớn của anh là chiếc xe Honda, ở quê tôi thời kỳ đó xe Honda còn khá hiếm. Anh dự định là có xe rồi, sẽ đem xe ra đua ngoài quốc lộ, lúc đó thiếu gì cô mê, mẹ anh khỏi nhọc công nhờ người mai mối.
Hồi năm 1960, chị tôi 16 tuổi phải đi lấy chồng vì mẹ bảo phải lấy.
Hai họ dẫn con vào nhà thờ để cha Xứ hỏi lẽ đạo. Khi về, một người bạn hỏi chị tôi:
-Sao! Hắn nhìn có được không"
Chị thản nhiên trả lời:
-Ba lão, chẳng biết là lão nào!
Ba người đó là ông rể tương lai và hai người bạn đi kèm.
Vào thập niên 70, tình duyên của tôi cũng được mai mối tương tự:
Cậu Sáu Điếc đi chợ về ngang nhà ghé vào gạ gẫm mẹ tôi:
-Bác bằng lòng là em tay trong hỏi con bé ấy ngay cho thằng Tửng, con bé hơi mập và đen nhưng hay lam hay làm lắm bác ạ.
Mẹ tôi ngần ngừ:
-Vẫn biết vậy, nhưng cháu của mợ nó xấu quá!
-Ăn thua gì cái xấu, ngày xưa vợ em còn xấu tợn, cái nết đánh chết cái đẹp mà bác.
Cậu gạ già hơn nữa:
-Nếu bác chịu, em cho bác mượn "con tâu" làm đám cưới đấy.
Ấy vậy mà mẹ tôi vẫn không chịu. Giá bèo quá, cả đời người con trai chẳng lẽ chỉ ngang giá một con trâu(")
Đến cuối thập niên 70 tôi bồ bịch cũng nhiều, nhưng khi bị vào trại cải tạo thì chỉ còn có một người con gái còn nhớ đến và đi thăm tôi. Khi được về, mẹ tôi bảo:
-Tao thấy cũng tội, thời này còn có mấy người được như vậy. Thôi cưới nó đi, kẻo lỡ làng đời con gái người ta và tội với giời.
Thế là tôi lấy vợ.
Bị "ninh tinh" tội, cho nên tôi bị quản chế không cho ra khỏi ấp.
nhưng "Nó" (ám chỉ vợ tôi) thì ở tận SG, tôi phải lên trên đó để cưới, lý do rất đơn giản là cho khỏi tội với giời và khỏi lỡ làng đời con gái.
Thời đó, chỉ có công nhân viên mới mua nổi vé xe đò. Tôi kiếm được củ khoai và chế ra rất nhiều mộc giả, thế là tôi lên được SG.
Sau khi chào hỏi cụ thân sinh, tôi nháy nàng ra sau bếp, cầu hôn bằng một câu rất cù lần:
-Em, mai mình đám cưới.
Vợ tôi cảm động gật đầu, cái gật đầu tàn đời trong ngõ hẹp.
Đám cưới cũng dự tính rình rang: Tôi đem theo hai cặp gà, bốn lít rượu đế và đôi nhẫn tí hon. Thánh lễ sẽ cử hành tại nhà thờ Phú Quí, ca đoàn loại xịn sẽ hát và rất nhiều người tham dự.
Mọi dự tính của tôi bị đảo lộn hết bởi cái anh Công An Khu Vực!
Ngày xưa anh ta mê vợ tôi, nhưng đem nghề thợ nề mà chọi với tôi quả là không cân xứng, anh quay ra đi làm cách mạng.
Vợ tôi đem giấy tờ của tôi lên trình, xin tạm trú qua đêm, anh ta mừng như bắt được vàng. Đọc tờ giấy phép đi đường, anh nhịp cẳng đắc ý:
-Bỏ mẹ mày nha thằng Nguỵ Nhí, vừa ra khỏi ấp không xin phép, lại xài giấy giả với mộc củ khoai. Ông sẽ cho mày xuống bến Ba Son, ra đi mà không hẹn ngày về.
...Ban Công an bèn lên chuyên án, cử ngay hai người tới nhà vợ tôi, mừng đôi uyên ương nên duyên cầm sắt!
Hên quá, tôi vừa mới rời nhà đi thăm người quen, thế là hai anh Công an xí hụt. Họ nhắn lại:
-Khi nào anh về, cho chúng tôi biết để tay bắt mặt mừng, người quen cả mà.
Từ ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng, vợ tôi khôn ra, vừa đưa người cửa trước, nàng phóng tuốt ra cửa sau, đứng chờ tôi ở đầu hẻm. Thấy chồng, nàng báo tin:
-Công an vừa vào nhà chúc mừng đám cưới.
Tôi ngạc nhiên:
-Công an mừng đám cưới" Tốt!
Tôi kéo vợ tôi về nhà, nàng giựt tay lại:
-Ngu vừa vừa chứ, nó đến để bắt đấy chứ chúc với mừng gì.
Tôi đang ở trên thượng giới, rơi cái bịch xuống trần gian. Ừ mà khéo nó bắt mình thật.
Bọn tôi ra tới nhà thờ Phú Quý, gặp cha Xứ, xin đổi lễ lại lúc 4g sáng thay vì 8g như đã định.
Cha nói:
-Sớm quá, không mời ca đoàn kịp.
Chúa ơi, tình trạng này mà cha còn hát hò gì nữa, phải làm sớm lúc công an còn đang ngủ, phải mời Chúa dậy mà làm chui.
Cỗ cưới của tôi, tựa như chiếc xe Lunch nên việc di chuyển sang nhà bà chị ở phường khác chẳng khó gì. Bà chị tôi ở gần đường Huỳnh Văn Bánh và Nguyễn Văn Đậu nên cỗ cưới tăng thêm hương vị ngọt ngào (có bánh và đậu mà).
Thực khách khoảng vài chục.
Khi mọi người đã an toạ, tôi từ chiếc xe ôm chững chạc bước vào nói đôi lời cảm ơn cha bác đến chung vui với hai cháu, đã không quản đường sá xa xôi, công an săn bắt.
Tôi nâng ly đế với mọi người, rồi bắt tay từng người một, vừa xong tôi chụm hai bàn tay lại, vái vái:
-Xin lỗi cha bác, con xin kiếu.
Ông bác cười thông cảm, nhưng cũng nói:
-Chú rể này láo, chả coi cha bác ra gì cả.
Để mọi người ngồi ăn cưới với nhau, tôi mượn chiếc xe đạp, chở nàng vòng vòng đường phố SG, trước là để trốn công an, sau là để ngắm lại những cảnh thơ mộng ngày xưa khi hai đứa còn đang bay bướm trên chiếc xe Lam brét tuýt.
Thỉnh thoảng đang đi, tôi quay ngoắt ra phía sau coi có ai theo dõi mình không, tựa như hai đứa đang đóng phim trinh thám.
Khoai sắn bây giờ là những món ăn "cao cấp" nhưng ít ai nghiệm ra giá trị tuyệt vời của nó, khi dùng để khắc mộc giả thì trên cả tuyệt vời.
Sáng hôm sau tôi lại dùng mộc củ khoai mua vé về quê để hưởng tuần trăng mật, để lại sau lưng anh Công an khu vực và ông Thủ Trưởng trường Dược với nỗi buồn đìu hiu ở hang Pác Bó.
Vợ tôi làm ở trường Dược, cứ ít ngày nàng lại buồn một chập: Cách mạng về thành họ lùa đàn heo vào chiếm vườn dược thảo, nơi trồng cây có vị thuốc để Sinh viên nghiên cứu. Vợ tôi buồn day dứt. Họ phát cho nàng tờ đơn tự nguyện xin giảm lương xuống một nửa. Nàng buồn vời vợi. Nàng buồn lang thang khi ông Thủ Trưởng đề nghị nàng gọi ông là anh xưng em, trong khi mấy cô Dược Sĩ dạy ở trường như cô Tuyết, cô Mai đều kêu ông bằng... Bố.
Ông tuy là người cách mạng nhưng được lắm, ít khi ngồi co giò lên ghế.
Về quê, hai đứa tôi sống êm đềm bên luỹ tre xanh của chung kênh ấp, bên mái tranh nghèo của bà già. Ngoại trừ mỗi tuần hai ngày vác xẻng lên xã "lấp hố bom", thời gian còn lại tôi thênh thang lắm. Gia đình tôi có một nhà máy xay lúa nho nhỏ, xã hội lành mạnh nên không có cảnh giành giựt khách ngoài đường, họ đóng tiền ở Ấp để mua phiếu, nhiệm vụ của chủ nhà máy là vác lúa từ ghe lên bờ, xay xong vác ngược xuống ghe. Bù lại, chủ được ưu tiên giới thiệu một lao động làm trong nhà máy.
Trong lúc bạn bè xưa còn đang lêu nghêu ở SG khó có thể kiếm được việc làm, tự dưng tôi được làm cho nhà nước.
Ông anh đề nghị:
-Nó cho một người làm, anh đứng tên, chú làm chui, để anh ra chợ trời kiếm cái gì mà buôn bán kẻo đói mất.
Tôi trở thành Chuyên viên Kỹ Thuật của Tập Đoàn Xay Xát. Khi có ai đem lúa tới, tôi bốc lên bờ, xếp vào chỗ qui định, đến lượt xay, tôi vác lên bồ lúa, đổ nó vào máy, giũ chiếc bao cho sạch rồi vất xuống đất. Khi họ xay xong, tôi lại vác ra ghe.
Việc tuy cực nhưng cũng có cái đền bù, chẳng hạn như lúc lén nhìn mấy cô bán gạo lậu ăn mặc theo kiểu tàn dư Mỹ Nguỵ. Tôi chỉ nhìn kín đáo, không để cho vợ biết, sợ nó buồn, tội nghiệp con bé phiêu bạt theo chồng.
Làm được ít tháng, tôi "quit job".