Hôm nay,  

Nước Mỹ Và Trăng

24/06/200700:00:00(Xem: 278500)

Người viết: Trần Nguyên Đán

Bài số 1279-1890-595vb7230607

*

Trần Nguyên Đán là bút hiệu của một tác giả tại miền Đông Hoa Kỳ, đã góp cho Viết Về Nước Mỹ nhiều bài viết đặc biệt. Mỗi bài của ông thường là một thử nghiệm đụng tới những gai góc ẩn ức sâu thẳm của từng nhân vật,  đồng thời,  vẫn lấp lánh đâu đó một đức tin giữa tình người, tình bạn, tình yêu, tình gia đình... Trước đây, công việc ông đang làm được ghi là ”phục vụ cộng đồng trong lãnh vực tư vấn.” Bài viết mới, một tuỳ bút đầy chất hồi tưởng sau đây bổ túc thêm: người viết là nhà thơ, nhà văn, nhà giáo, và hiện là một nhà truyền giáo.

*

1.

Tôi còn nhớ bài viết đầu tiên của tôi được đăng trên báo là bài Chiếc Lồng Đèn, năm mười bốn tuổi, chuyện kể một đứa trẻ con nhà nghèo không lồng đèn trong đêm Trung Thu, mùa Tết trẻ thơ, sau khi thèm thuồng nhìn những đứa trẻ hàng xóm tay cầm những chiếc lồng đèn xanh đỏ đi vào trong xóm, ngồi lại trên thềm căn nhà dột nát, nhìn lên bầu trời sáng vằng vặc một vầng trăng, và thầm nhủ, mình cũng có một chiếc lồng đèn... đèn trăng, trăng tròn... Tôi cố tình làm cho đứa trẻ thơ mộng một chút, chứ đứa bé trên dưới mười tuổi mà đã ví von được chiếc lồng đèn với vầng trăng thì... cao cấp quá.

Lớn hơn, năm mười sáu tuổi, tôi làm một bài thơ dài đăng trên một tờ báo của tuổi trẻ thời ấy, một vở kịch thơ thì đúng hơn, dựa trên bài thơ Tống Biệt của Tản Đà với những nhân vật Lưu Thần, Nguyễn Triệu đi lạc vào Thiên Thai, một câu chuyện tình với các nàng tiên có sad ending vì hình ảnh bóng trăng thơ thẩn một mình nơi cửa động, cô đơn, mãi mãi, không bao giờ gặp lại:

cửa động,

đầu non,

đường lối cũ

nghìn năm thơ thẩn

bóng trăng chơi...

Tuyệt vời là những chữ nghìn - năm - thơ - thẩn - bóng - trăng - chơi

Trăng, theo tôi từ những ngày còn rất bé, cái hình ảnh xưa cũ nhất về trăng mà tôi còn nhớ, hình như là một trong những ngày thanh bình rất hiếm hoi ở quê ngoại, tôi nắm tay bà ngoại nhỏ bé, ốm yếu đi trên con đường làng, nhìn vầng trăng tròn treo lơ lửng trên khóm tre cao vút, về sau tả lại trong một truyện ngắn viết về quê hương được giải khuyến khích, đứa bé rất bé lúc ấy, mà đã có một cảm xúc rất lạ lùng, là ao ước có một sợi dây dài ném lên tận trăng, cột vào một góc vầng trăng, kéo trăng theo mình. Đứa trẻ có xúc cảm rất sớm ấy về sau có một tâm hồn khá đa cảm, làm thơ, viết văn, làm thầy giáo, và cuối cùng, làm... Mục sư.

Khi tôi đến Mỹ, nghề nghiệp đầu tiên của tôi là làm việc cho một cây xăng, do một  người Việt làm chủ. Tôi làm tất cả mọi việc của một người làm việc trong cây xăng, bán xăng, bán hàng, chất hàng, lấy hàng, quét rác, lấy rác, đổ rác. Buổi tối kia, khi từ trong trạm xăng bước ra tay ôm một bao rác đi đổ, tôi nhìn thấy một vũng sáng rộng trên sân, vũng sáng lạ, không phải đèn, tôi nhìn lên, và thấy một vầng trăng, thật to, thật tròn, thật vàng, thật sáng, thật đẹp, treo lơ lửng trên bầu trời đen hun hút, đẹp đến nỗi tôi ngẩn người ra, thôi quét rác, nhìn mãi, nhìn mãi, và nhủ thầm trong lòng: Mỹ mà cũng có trăng sao"

Tôi mang cái tư tưởng nước Mỹ không trăng rừ khi còn ở quê nhà, nghĩ rằng nước Mỹ với những tòa nhà chọc trời che khuất mất vầng trăng, nghĩ rằng những tâm hồn Mỹ đã hiện đại hóa với cách sống thực dụng, với fast food, với computer, internet, không còn thì giờ cho những chuyện vớ vẩn như là ngồi ngắm nhìn một vầng trăng khuya. Trăng chỉ còn trong cổ tích hay trong những tâm hồn cổ lỗ sỉ, sống không hợp thời trang nữa giống như tôi. Có đèn điện rực sáng rồi, trăng mà chi.

Nhưng tôi lầm. Mỹ cũng có trăng chứ.

2.

Tôi viết bài này và biết rằng khi được đăng lên báo thì ngày 30/4 đã qua rất lâu. Qua đi cho tất cả lắng đọng xuống, như những hạt bụi lắng xuống nằm yên dưới đáy của một hồ nước. Năm nay là kỷ niệm 32 năm, vẫn tất cả những nghi thức cho một ngày khó quên, thấy không rầm rộ lắm như lần kỷ niệm 30 năm, người ta thường chọn những con số chẵn để làm những kỷ niệm lớn, như kỷ niệm ngày cuới 10 năm, 20 năm, 30 năm, lễ đồng lễ bạc lễ vàng ... rầm rộ hay không là về mặt hình thức, chứ nội dung thì không khác, vẫn là nỗi đau của một dân tộc mang cảm giác mình mất nước. Thật ra mình đâu có mất nước, nước vẫn còn đó, mình vẫn có thể đi về, chỉ có khác là mình không thể sống với đất nước như cách mình muốn sống.

Tôi muốn kể lại một chút thời kỳ quá khứ của mình. Tôi là con một sĩ quan cao cấp của quân đội Việt Nam Cộng Hòa, tôi vẫn hãnh diện được nhắc lại những từ đó. Năm 1975 đến khi tôi đang là một thầy giáo dạy học tại một quận xa của thành phố Pleiku... em Pleiku má đỏ môi hồng, thành phố đi dăm phút đã về chốn cũ. Quận đèo heo hút gió, buổi sáng ra trước mặt đường nhìn quốc lộ dài hun hút không bóng người, không bóng xe, sương mù khuất lối. Quận lỵ được mô tả trong một đoạn thơ của một thầy giáo trẻ, còn nhớ nguyên văn:

cuối năm nằm trong rừng núi thẳm

xa lắc rồi em những mộng xưa

lòng ta tan nát như chai vỡ

quận lỵ tàn đông khói mịt mù

Ngày 10 tháng 3, tôi sẽ nhớ hoài ngày đó, khi thành phố bị pháo kích, bốc cháy đây đó, phi trường quân sự Cù Hanh bốc lên từng đụn khói cao ngất trời. Chúng tôi một lũ thầy cô giáo còn quá trẻ như những đứa trẻ vừa lớn, bỏ quận lỵ chạy về, cũng lao nhao hoảng loạn chung với dân thành phố. Người bạn dạy cùng trường, sống chung trong một cái trại cưa có một phòng, ngủ trên chiếc giường hai tầng đứa trên đứa dưới, người bạn có cái cassette nhỏ với một cái tape cũ cứ hát đi hát lại mãi bài If you go away, vào những buổi tối mưa rả rích trên mái tôn, nằm nhớ người yêu mà cứ nghe đi nghe lại mãi điệu nhạc và giọng ca buồn thảm, tôi có lúc phải la lên: mày làm ơn tắt giùm cassette cho tao nhờ chút coi ... Người bạn ấy đã len lỏi chen vào đám đông đen kịt trước cửa ngân hàng thương tín Pleiku, rút ra được 60,000 đồng, là tất cả số tiền anh để dành được trong 6 tháng dạy học ngắn ngủi, chia cho tôi và một người bạn nữa (tiền dạy học của tôi tháng nào thì đã cà phê thuốc lá sạch sẽ tháng nấy cả rồi), chia đều mỗi đứa 20000, không có phân biệt tiền tao tiền mày, không có nói cho mượn nhớ trả lại, chỉ nói: nếu lỡ lạc nhau thì có mà dùng. Rồi ba đứa chạy chung, bám vào một chiếc xe chở mì gói chất đầy mì của hãng Vifon. Quả như lời 'tiên tri', ngay đêm đầu tiên, chiếc xe chở mì gói trượt bánh trên một con dốc cao trơn trợt lọt xuống hố, tôi đã nhảy ra kịp trước khi nó lọt xuống hố chổng bốn vó lên trời. Trong bóng đêm dày đặc, mưa ướt át, đất nhão nhoẹt, người ta nhốn nháo, la hét, kêu cứu ... chúng tôi lạc nhau. Cái va ly duy nhất tôi mang theo đựng quần áo và các thứ cần dùng cũng theo chiếc xe lọt xuống hố. Từ đây là chạy... mình không.

Chạy 13 ngày trên đoạn đường... máu, xe thiết giáp của lính chạy trước, cày lên những khoảng rừng thưa, rừng già, cày lên mìn, lên bom, dân chạy sau, bom nổ, mìn nổ, súng nổ, hàng rào dây thép gai, lửa và máu... Paris By Night dù có hay đến đâu thì cũng khộng thể dựng lại hết cả sự khủng khiếp của hình ảnh đó. Tôi cũng không có ý kể lại hết tất cả những sự khủng khiếp trên đoạn đường ấy, không muốn kể lại, không muốn nhắc lại, không muốn nhớ lại, ngoại trừ ba hình ảnh ghi sâu vào tiềm thức: hình ảnh đứa bé tay cầm con gà chạy theo bà mẹ quê gồng gánh vỏn vẹn vài ký gạo, nải chuối mốc. Cả hai bị đạn bắn chết ngay bên cạnh tôi. Đứa bé ngã ngửa trên mặt đường đất, mắt mở trừng, mà tay vẫn giữ chặt con gà như là lẽ sống cuối cùng của nó. Oái oăm thay, con gà vẫn còn sống. Hình ảnh thứ hai là đêm vượt sông Ba, một người mẹ tay bồng đứa con nhỏ hơn, tay lôi đứa con lớn hơn vượt khúc sông cạn ngang tới thắt lưng, qua một khúc sâu hơn, nước chảy, đạn bắn, đứa bé tuột tay mẹ chìm xuống nước, tôi đang bước tới ngay phía sau lưng nó, nắm tay nó dựng dậy, bế nó lên, qua bên kia sông tôi trao nó lại cho mẹ nó. Và rồi mạnh ai nấy chạy.

Cái hình ảnh thứ ba mà tôi đặc biệt muốn nhắc lại, vì tôi nghĩ nó là một chương trình của Chúa, Đấng mà tôi tin yêu, thờ phượng và hầu việc sau này. Sau khi vượt qua sông Ba, chúng tôi đoàn người đầu tiên phải vượt qua một đoạn đường dài 25 cây số để đến địa đầu quận Hiếu Xương thành phố Tuy Hòa, vùng đất còn trong sự kiểm soát của quân đội Việt Nam lúc ấy. Đoạn đường này là đoạn đường dữ dội nhất, quyết liệt nhất vì đoàn quân dân bỏ chạy dứt khoát phải vượt qua, mà người Cộng sản thì nhất định muốn chận lại. Mìn gài dọc đường, ven đường, trên đường, đạn từ trong làng bắn ra, còn bao nhiêu đạn người đang chạy bắn lại. Xác người bắn tung lên trong bóng chiều sau những tiếng nổ kinh hồn. Một người bạn dạy học cùng trường với tôi nổ tan xác trong buổi chiều cuối cùng hôm ấy. Sau mỗi tiếng nổ, đoàn người lại nằm rạp xuống bên đường để tránh, và sau đó tiếp tục đứng dậy chạy càn lên mặt đường. Khi tôi đang lao lên phía trước, một người lính tay cầm súng, quay ngược báng súng lại đập mạnh vào đầu gối tôi, tôi quỵ xuống, đoàn người phía sau tràn tới và thêm một tiếng nổ kinh hoàng khác, xác người bắn tung lên trời. Trong giờ phút hoảng loạn ấy, mạnh ai nấy chạy thoát thân, sao người lính ấy còn kịp làm một hành động ý nghĩa cuối cùng, sao anh không quăng súng đi mà chạy thoát thân như những người lính khác" Tôi không chết trong buổi chiều hôm ấy, để sau đó lê lết được đến Hiếu Xương, nhìn thấy từ xa những người lính trên những chiếc xe tăng, và đoàn dân đang gánh cháo, gánh cơm, gánh nước đứng chờ. Một người đưa cho tôi gáo nước, và nói: Bình yên rồi. Tôi ngã lăn trên đất, chảy nước mắt.

Cuối cùng, hình ảnh đẹp nhất mà tôi có thể nhớ lại và chưa bao giờ kể cho bất cứ một người nào nghe, đó là một trong những đêm nằm trên bãi cát sát dòng sông Ba chờ những chiếc máy bay trực thăng thả vỉ sắt xuống làm cầu tạm bắc qua sông, nằm ngửa mặt lên trời, nhìn mãi vầng trăng khuyết đang tàn dần bên kia núi, lòng băn khoăn không biết cuối cùng rồi sẽ ra sao, mình sẽ về đâu, có còn gặp lại gia đình không, người thân không. Mầu trăng hôm ấy như có pha chút sắc hồng của máu và lửa, của những trái hỏa châu bắn từng đợt lên bầu trời xanh xao, vô vọng.

Nhưng những ngày tháng đó, không có bình yên thật, chỉ là giai đoạn, sớm hay muộn mà thôi. Tuy Hòa mất vài ngày sau đó, khi tôi rời khỏi nó trên chiếc xe đò bằng số tiền người bạn tôi chia cho trước khi lạc nhau. Tôi về đến Cam Ranh, nơi gia đình đang ở đó, để rồi vài ngày sau nữa vượt quốc lộ 1 chạy vào Sài Gòn, bị chận lại ở Phan Rang 15 ngày, sống trong một căn nhà chủ đã bỏ chạy, cuối cùng leo lên một chiếc tàu đánh cá trên cửa biển Phan Rí, lênh đênh hai ngày trên biển, vào đến Vũng Tàu, chạy kịp vào đến Sài Gòn gặp cha tôi lần cuối cùng trước khi ông chạy ra bến Bạch Đằng sáng 30/4, lên một chiếc tàu nào đó rời khỏi quê hương đang tan vỡ.

Tôi mãi mãi không gặp lại cha tôi từ ngày đó. Ông sang Mỹ và mất năm 1986 trước khi tôi kịp lên máy bay bay đến vùng đất tự do này.

3.

Nếu không nhắc đến khoảng thời gian sau 1975 đó thì thật là một sự thiếu sót.

Sau hai ba lần cố gắng chạy lên chạy xuống, Ban Mê Thuột, Pleiku, nộp đơn, chờ đợi, cuối cùng, người ta nói thẳng vào mặt tôi: đi lao động đi, anh 'mất dạy' rồi, lý lịch đó mà còn dạy dỗ gì. Tôi trở lại thành phố quê hương với gia đình, lao động thật. Với số tiền ít ỏi dành dụm được, mẹ tôi mua một miếng đất trồng chuối trên một sườn núi khô khan cằn cỗi. Chúng tôi trồng chuối, chặt chuối, gánh chuối đi bán, đi bộ. Tiền đâu mà đi xe lam, xe ngựa" Thầy giáo còn quá trẻ, quăng hết bút viết, phấn trắng bảng đen, gánh những gánh chuối cong xương sống, chân không có dép, gánh đi từ sáng cho đến chiều mới đến chợ. Đứng đó, không dám mở miệng chào mời người mua, vì xấu hổ, vì sĩ diện, rồi gánh về đến nhà thì đã nửa khuya. Căn nhà bị một đồn công an án ngữ phía trước, buổi tối đi lao động về muốn tìm giây phút thư giãn với cái cassette cũ, những bài hát một thời yêu mến, vừa mở ra, vặn volume thật nhỏ đã thoáng thấy bóng áo vàng vụt qua trước cửa sổ. Đành tắt.

Nhưng có lẽ lao động cực nhọc cũng không khổ hơn những lần đi họp thanh niên trên phường trên khóm, ngồi nghe những anh cán bộ viết chữ không ra nói những chuyện vớ vẩn đại loại như là phi công ta anh hùng mở cửa máy bay bắt sống giặc lái trên không....

Một năm sau đó những người lớn trong gia đình phải mò mẫm đi theo người cậu đi vào rừng để khai hoang mà sống. Ngày đầu tiên lội qua con sông cạn, nhìn rừng núi mịt mù, những cánh đồng hoang ngụt nắng lửa bên kia bờ, chỉ muốn quay lại. Những trảng tranh, lau sậy bạt ngàn, cuốc từng mảng, khai hoang từng mảng, rồi vào rừng đốn cây về tự làm nhà ở, bên cạnh dòng sông hoang dại từ lâu không bóng người lai vãng, chỉ có bóng những con thú rừng thỉnh thoảng lạc về, đôi khi nghĩ mình giống Robinson lạc trên hoang đảo. Buổi chiều sau một ngày lao động vất vả thì lần mò đi xuống bờ sông, hai bên bờ tre trúc và lau sậy, vùi thể xác mệt mỏi vào dòng nước rồi quảy đôi thùng sắt gánh nước về. Rồi những cơn sốt rét rừng vùi dập, với những viên thuốc xuyên tâm liên uống như ăn những viên cơm nguội bị mốc.

Sống sót qua những ngày tháng đó quả là một phép lạ. Thể xác bị hành hạ đã đành, tinh thần bị hủy diệt nhiều hơn. Có rất nhiều lần tôi chống cuốc đứng trên triền dốc con sông nước chảy đục ngầu phía dưới, chỉ muốn nhảy xuống. Nếu không lập gia đình sớm, không có đứa con, chắc cũng có một lần nhảy. Tôi không hề sợ chết lúc ấy, có khá nhiều những người bạn tự chọn cái chết cho mình sau 1975, tôi muốn trở thành một trong số họ. Nhưng có môt ai đó níu chân tôi lại, mà sau này tôi mới biết.

Điều còn an ủi tôi là những đêm trăng rừng, nằm trên chòi cao nhìn xuyên qua mái lá. Trăng rừng có một sự thu hút đặc biệt, cô đơn và hoang dại như hình ảnh của Hoàng Tử Bé trên một tinh cầu xa. Lạ lắm, khi nhìn trăng tôi không cảm thấy buồn bã tuyệt vọng nhiều nữa, tôi có cảm xúc như gần một người bạn thân yêu, và trải rộng lòng mình chia xẻ nỗi niềm.

Sau những cuối năm 70 đói dữ dội, gia đình nhỏ của tôi đành từ giã quê hương nhỏ bé, từ giã mảnh đất khô cằn hoang dại, mái nhà tranh vách đất đúng nghĩa, lang thang vào đến những doi đất đầu cực Nam, tưởng chừng như sống lại thưở hồng hoang, nơi đây lưa thưa những mái lá, vách lá, loáng thoáng trong những rừng dừa nước xanh um, với những chiếc xuồng ba lá, kinh rạch chằng chịt tối om, với những ngôn ngữ rất lạ chưa hề nghe.

Thầy giáo năm nào bây giờ có nghề mới, đi làm thuê trong một trại làm bún, mà chủ cũng nghèo như thợ, chỉ có thể trả công bằng những mẹt bún, mang về cho vợ con ăn. Tiền mà làm gì, vì có gì đâu mà mua trong cõi sông nước mênh mông ấy. Thỉnh thoảng chèo ghe ba lá qua bên kia sông, gan dạ cùng mình đổi hũ muối, chai mắm, miếng thịt mỡ, rồi chèo về, nhìn lục bình trôi dềnh dàng từng đám trên sông như thân phận mình, chẳng suy nghĩ gì, nghĩ rằng đời mình sẽ mãi mãi như thế, thôi yên phận đi.

Chẳng bao giờ quên được hình ảnh một buổi tối vì không đủ tiền về xe lam, vác thằng con ba tuổi ngủ vùi vì mệt trên vai, đi bộ bằng đôi chân trần trên đoạn đường sỏi đá tan nát mười mấy cây số. Đêm ấy trăng sáng soi đường cho tôi đi, khi về đến bờ sông thì đã hơn 12 giờ khuya, ngồi đó, tuyệt vọng, hết đò. Ngủ đâu đêm nay" Rồi cuối cùng, trời thương, cũng có một ông già lỡ đường, gọi được chiếc ghe con trôi dạt, qua được sông. Ngồi bó gối ôm con trên chiếc xuồng mỏng manh, ngửa mặt lên nhìn trời khuya, trăng đang tàn dần. Trăng thôn dã trên sông lóng lánh ánh vàng, như cảm thông cho cuộc đời tôi.

Thỉnh thoảng, còn cóp nhặt được tờ giấy, cây viết, còn viết, còn mơ mộng:

có một ngày, đứa con trai ngồi hờ hững trước ly chocolate nóng của nó

và tiếng nhạc quanh quẩn đâu đó

trong căn phòng rộng, với sách, và bàn ghế...

Vừa làm thơ vừa tưởng tượng ngày người cha vừa liên lạc lại được bên kia bờ Thái Bình Dương sẽ cầm cây đũa thần gõ lên. Rồi căn phòng hiện ra, với bàn ghế, tủ sách, nhạc nhẹ, chocolate cho con, cà phê nóng cho mình. Hai năm sau nữa, cây đũa gõ ra phép màu thật, radio cassette hiệu Sharp, Sony, JVC, thuốc tây, vải silk, kẹp tóc mầu, quần jean Levi's, áo sơ mi trong hộp giấy từ một miền nào đó của California bay về, cải tạo lại cuộc đời.

Một lần nữa khăn gói trở lại quê cũ, nhưng không trở về vùng đất hoang dại đó nữa. Về lại thành phố, mua một chiếc máy may cũ cho vợ làm nghề may quần đùi bỏ chợ. Người bạn tình cờ gặp (một độc giả ái mộ thơ mình ngày xưa) đề nghị cho một chỗ tá túc trong căn nhà không rộng lắm, thế cũng đủ sống qua ngày, chờ đợi. Thế cũng tạm đủ cho những buổi sáng thật sớm, 5 giờ, bạn từ trên gác xuống, gõ nhẹ vào cánh cửa gỗ làm hiệu, thế là choàng dậy, thay áo quần trong bóng tối, thật khẽ sợ chạm giấc ngủ của vợ của con, rồi mở cửa nhẹ như một tên trộm, dắt chiếc xe đạp cọc cạch ra phía trước. Bạn đã ngồi trên một chiếc xe đạp khác chờ đợi, không ai nói với ai lời nào, lặng lẽ phóng xe đi.

Thành phố còn ngủ say, thỉnh thoảng có những chiếc xích lô chở một vài khuôn mặt ngái ngủ từ nhà ga gần đó vụt qua. Vào quán cà phê nhỏ xíu tối ám như một cái bếp cũ kỹ đầy nghẹt người, gọi cà phê, thuốc lá, nói những chuyện thời sự, trên trời dưới đất.

Trời sáng hơn một chút, người bạn lại cọc cạch đạp xe đạp đi làm, còn mình thì đạp xe đạp về nhà, vừa lúc vợ con cũng vừa thức dậy, phụ khiêng cái máy may cũ ra kê sát cửa sổ cho ánh nắng dọi vào, phụ chạy ra ngõ mua gói xôi cho vợ, cho hai thằng con, rồi dẫn chúng đi học. Xong rồi, không có việc gì làm hết, chạy lăng quăng cho đến chiều.

Tôi đã gặp Chúa Jesus trong thời gian đó. Thuở ban đầu mới gặp thì cũng còn khí thế lắm, hung hăng phát biểu, chất vấn, tranh luận... nhưng rồi cái sợi dây tình yêu êm ái ấy vây phủ mình bao giờ không hay. Người ta bị thuyết phục không bằng lý luận, mà bằng tình yêu.

Ngày tôi cúi đầu cầu nguyện mời Ngài bước vào để làm chủ cuộc đời mình là một buổi sáng mùa xuân trên bãi biển Nha Trang “sóng vỗ miên man như câu ru êm của mẹ dịu dàng.” Ngày đó tôi quăng bao thuốc lá Mai vào trong bếp, và không bao giờ cầm lại điếu thuốc trong cuộc đời. Tôi trở thành một người khác. Và điều lạ lùng nhất tôi nhận ra, kể từ ngày ấy, tôi không còn nhìn những người Cộng sản với con mắt và tâm trí thù hận nữa, trái lại, tôi nhìn họ như những sinh vật đáng thương, đang làm những chuyện mà không biết mình làm gì, như Chúa Jesus cầu nguyện khi bị kẻ thù đóng đinh trên thập tự giá: xin Cha tha tội cho họ, vì họ không biết mình làm gì.

Đầu những năm 1990, tôi và gia đình được gọi đi phỏng vấn. Sau đó, chúng tôi vào Sài gòn để chuẩn bị... bay đi. Người bạn thơ năm nào còn kịp làm cho tôi một tập thơ mỏng, thu thập từ những bài thơ làm trước và sau 1975. Những ngày cuối cùng lang thang, vào nhà sách Khai Trí cũ trên đường Lê Lợi, nhìn thấy tập thơ bé nhỏ của mình nằm cạnh những tập thơ của những thi sĩ... lớn, lòng tôi cảm động. Tôi mua một tập, tặng cho... mình.

Rồi tôi đi. Đêm trước khi tôi đi, cũng là một đêm trăng sáng, ngồi trong căn nhà gỗ cất chênh vênh trên một rạch rau muống, nghe ếch nhái kêu. Tôi nói thầm: từ giã quê hương yêu dấu, Nha Trang, Ban Mê Thuột, Pleiku, Cần Thơ, Rạch Giá...  “Sài gòn ơi tôi xin hứa rằng tôi trở về, dù thời gian ...”

4.

Bây giờ là Hoa Kỳ, vùng đất thiên đường. Nhưng cũng coi chừng, nó có thể trở thành địa ngục cho ai đó không cẩn thận. Hoa Kỳ, cái ranh giới của thiên đường và địa ngục rất mong manh, chỉ một bước chân.

Sau nhiều năm cố gắng vượt qua dòng nước ngược, chúng tôi mua được một căn nhà. Căn nhà của chúng tôi nếu có thể được gọi là, thì nó cũng là một căn nhà nằm trên một triền đồi, như hình ảnh một bài hát thơ mộng ngày nào: rước em lên đồi, cỏ hoang ngập lối, rước em lên đồi, hẹn với bình minh, đôi chân xinh xinh như tình thôi khép nép, hãy vất chiếc dép, bước đi ôm cỏ hồng.

Những buổi sáng tự pha cho mình ly cà phê nóng, ngồi vào bàn, mở computer, nhìn qua cửa sổ, những mái nhà chênh vênh trên các triền dốc, bên kia là một thung lũng đỏ rực sắc lá vào mùa thu, hay xanh ngát vào mùa hạ, lấm tấm hoa vào mùa xuân và trắng xóa khi sang đông. Sau những giờ căng thẳng với những chữ nghĩa, nếu muốn vẫn có thể lái xe rời nhà đến một quán cà phê nào đó, mua một ly, ngồi vào bàn, lơ đãng nghe nhạc, hay lại mở laptop ra chúi đầu vào đấy như một sinh viên hay một thương gia thứ thiệt, hay giả vờ mở tờ báo Washington Post để trong góc phòng, làm bộ đọc và mỉm cười nháy mắt với các cô chú bé tí bám quần bám váy cha mẹ đi ngang như các ông bà già Mỹ chính cống. Nắng bát ngát ngoài cửa kính.

Còn buổi tối" Tôi lại nhìn thấy trăng, vầng trăng của tôi. Đêm qua, vợ tôi đi làm, các con cũng đi đâu hết cả, tôi ngồi trước computer, chợt thấy lại một vũng sáng bát ngát trên sân. Tôi lại gần cửa sổ, mở bức màn cửa lên, và nhìn thấy... một vầng trăng. Cái mầu sáng lung linh của trăng không hề giống như ánh sáng đèn, từ trên cao tôi nhìn lên cao hơn và thấy lại mình từ thuở ấu thơ, thèm quăng một sợi dây tóm được vầng trăng lôi xuống cùng mình. Tôi nhớ lại tất cả, từ những ngày chạy loạn Pleiku, từ những ngày kinh tế mới Nha Trang, từ những ngày mưu sinh vất vả nhọc nhằn Rạch Giá... những ngày tuyệt vọng, cùng đường.

Tôi mở computer và gõ vào đấy:

Tạ ơn Đức Chúa Trời  vì sự sắp xếp kỳ diệu của Ngài cho cuộc đời con.

Cám ơn cha tôi, cám ơn cha vợ tôi, những ngưòi bây giờ không còn nữa, đã góp phần mang tôi đến đất nước này.

Cám ơn gia đình lớn của tôi đã giúp đỡ tôi những ngày đầu bỡ ngỡ, và cám ơn gia đình nhỏ của tôi đã ở bên tôi những ngày sau đó cho đến bây giờ.

Và cuối cùng, cám ơn nước Mỹ đã mở rộng vòng tay để cưu mang tôi và cho tôi có được ngày hôm nay.

Nước Mỹ vẫn còn trăng đấy chứ. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 833,323,796
Khi nói về biên giới, ai cũng nghĩ đến lằn ranh chia đôi giữa nước này với nước kia, mà ít ai nghĩ đến cái biên giới giữa cái sống và cái chết
Hàng năm, tuy không hẹn trước nhưng vợ chồng tôi cứ nhắm chừng con heo đất hơi nặng là lật đật đập ra mua vé lơn tơn về Việt Nam
Lâu nay tôi bị khó chịu ở cổ, rồi bị đau luôn cái chân bên phải. Mỗi lần muốn nhấc chân lên để bước đi, dù chỉ là một bước ngắn cũng đã là khó khăn lắm.
Chưa vào hè, Ontario, Đông CA có ngày nhiệt độ trên 100 độ F. Từ tiểu bang Texas trải dài qua vùng Trung Tây mưa lũ, nước ngập tràn sông Mississippi.
Năm đó, tôi theo bạn dự lễ ở nhà thờ, tình cờ ngồi bên cạnh một ông cụ trông ốm yếu, ho hen.
Tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2012, với những bài viết linh hoạt về đời sống tại Mỹ kèm theo hình ảnh hoặc tài liệu do ông thực hiện hoặc sưu tập. Sống động, cũng chẳng ngại sống sượng, bài viết của ông thường gây nhiều chú ý và bàn cãi. Một số đã được in thành sách "Xin Em Tấm Hình" và tập truyện mới, "Bắc Kỳ". Sau đây, thêm một bài viết mới.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước My từ tháng 5/2019. Ông cho biết tên là Dương Vũ, sang Mỹ từ năm 1975, khởi đầu định cư tại tiểu bang SC, và hiện đang sống ở Sacramento. Bút hiệu ông chọn là VuongVu (viết liền, không dấu.) Bài đầu tiên là hành trình di tản từ 30 tháng Tư, 1975, với nhiều chi tiết sống động. Sau đây là bài viết thứ hai.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ. Bà cho biết là nhà giáo về hưu, sống tại Canada. "Huế -Dallas" là bài viết đầu tiên kể về người chị và những kỷ niệm thời mới lớn của hai chị em tại Huế đã được phổ biến từ tháng Sáu 2019. Bài thứ hai, mới nhất, là một truyện tình khác thường, dữ dội như lời ca Phạm Duy, “Yêu người xong chết được ngày mai.” Nhân vật chính, một người nữ gốc Việt sinh tại Hoa Kỳ, và một chàng Argentina. Họ gặp nhau trong lễ hội hóa trang tại Venice. Chuyện được nàng và chàng trực tiếp kể bằng lời tự sự, cho thấy cách viết độc đáo của tác giả. Mong bà tiếp tục.
Tác giả đã nhận giải bán kết Viết Về Nước Mỹ 2002 với bài "Tiểu Hợp Chủng Quốc" kể về nơi cô làm việc, khi khủng bố tấn công nước Mỹ ngày 9 tháng 11 năm 2001. Viết về nước Mỹ sang năm thứ 15, cô nhận thêm giải danh dự với tự truyện về bệnh lãng tai bẩm sinh. Bài viết mới là một du ký tháng Bẩy, bên cạnh nơi thăm viếng chính là Smokies Mountain, có nhiều ghi nhận thú vị và hữu ích về chặng đường ngàn dặm lái xe qua 4 tiểu bang của nước Mỹ. Bài đăng 2 kỳ. Tiếp theo và hết.
Tác giả đã nhận giải bán kết Viết Về Nước Mỹ 2002 với bài "Tiểu Hợp Chủng Quốc" kể về nơi cô làm việc, khi khủng bố tấn công nước Mỹ ngày 9 tháng 11 năm 2001. Viết về nước Mỹ sang năm thứ 15, cô nhận thêm giải danh dự với tự truyện về bệnh lãng tai bẩm sinh. Bài viết mới là một du ký tháng Bẩy, bên cạnh nơi thăm viếng chính là Smokies Mountain, có nhiều ghi nhận thú vị và hữu ích về chặng đường ngàn dặm lái xe qua 4 tiểu bang của nước Mỹ.