Hôm nay,  

Cô Tám

20/03/200600:00:00(Xem: 124217)

<"xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:office:office" />

Tác giả cho biết ông sinh năm 1934 tại Cần Thơ, hiện là cư dân <"xml:namespace prefix = st1 ns = "urn:schemas-microsoft-com:office:smarttags" />Austin, Texas. Bài Viết Về Nước Mỹ đầu tiên của ông là “Những Người Tuổi Sửu”, kể chiuyện “đi cầy tại Mỹ” cho thấy tấm lòng của các bậc cha anh với thế hệ con em. Bài mới lần này là câu chuyện về một bà mẹ thuyền nhân phấn đấu với hoàn cảnh, một mình nuôi dạy con cái thành đạt trên đất Mỹ.

*

Năm 1979, gia đình Cô Tám bị Cộng sản đánh tư sản nên khánh tận. Cô Tám cùng chồng và 3 đứa con vượt biển theo dòng người đi lánh nạn Cộng sản sau ngày 30/4/75.

Gia đình cô đi trên chuyến tàu gỗ chở 105 người đi vượt biển, rất gian nguy, thập tử nhất sinh. Con tàu này đi lạc hướng, vì bị hỏng máy và phần bị bảo táp làm trôi dạt lênh đênh trên biển mất 28 ngày đêm..May nhờ một tàu đánh cá của Phi Luật Tân cứu nạn kéo vào trại tị nạn ở Palawan, khi cô đã kiệt sức vì đói lả sau 28 ngày đêm. Lần ấy nếu không cô tỉnh lại, người ta đã ném cô xuống biển để thủy táng, như 10 người đã kiệt sức chết trước đó mấy hôm. Tuy đến được bến bờ, nhưng cô lại bị bệnh dai dẳng trong 2 năm. Cũng tại nơi này cô bị mất một đứa con và bị hư thai.

Sau 3 năm ở trại tị nạn, Cô bắt đầu khoẻ lại. Gia đình cô Tám được đến định cư tại thành phố Boston. thuộc tiểu bang Massachusetts, Hoa Kỳ. Nhưng gia đình cô gặp nhiều cảnh tình oan trái. Chồng cô không một lòng một dạ gầy dựng lại tương lai của gia đình nơi xứ lạ quê người. Đã thế còn bê tha với bạn bè ăn nhậu say sưa, trai gái. Ngược lại còn hành hạ đánh đập cô, hăm dọa bỏ cô cho chết.

Mặc dù gặp cảnh ông chồng quá vũ phu và tệ bạc. Cô cũng cam chịu. Cô tìm đủ mọi cách để xây dựng gia đình, nhưng chồng cô vẫn chứng nào tật đó hết thuốc chữa.

Ngày chồng cô bỏ cô, hoàn cảnh bản thân cô rất bi thảm. Cô không biết gì về nếp sống mới tại Mỹ. Tất cả đều xa lạ, trình độ học vấn yếu kém, cô phải tìm đủ mọi cách để vật lộn trước hoàn cảnh đơn thân, phải nuôi 3 con còn non dại.

Không có trợ cấp (Child support) của chồng để nuôi con, vì lý do chưa ra tòa ly dị.

Phải mất hơn mười năm sau, chồng cô về Việt Nam cưới vợ khác, mới chịu ra tòa ly dị cô. Mục đích của anh ta cũng muốn trốn tránh trả trợ cấp nuôi con. Thật ra cô cũng không cần chi số tiền 74 dô la mỗi tuần, theo án lệnh của tòa bắt chồng cô phải trả nuôi con.

Cô cũng chẳng nhận trợ cấp an sinh xã hội. Nên cuộc sống rất vất vả.

Dù có trăm ngàn khó khăn, cô vẫn quyết tâm vươn lên, một mình vất vả đi làm nuôi con. Ngày đến Mỹ cô mới bắt đầu học tiếng My, thế mà chỉ sau 3 năm tự học Anh ngữ, bằng phương pháp mỗi ngày chỉ học 5 chữ trên quyển tự điển Anh Việt, sau đó nghe radio, truyền hình, và tham dự những lớp học đàm thoại thêm tại nhà thờ, cô đã thành công như ý muốn và đàm thoại Anh ngữ dễ dàng.

Một hôm có người bạn gái đang làm ở sở Bưu điện Mỹ (US Postal Service) ở South Boston, báo cho cô biết Bưu điện đang mở khóa thi để tuyển dụng người. Cô lo sợ mình không đủ khả năng thi. Người bạn khuyến khích và hứa giúp đỡ hướng dẫn cách thi. Cô nạp đơn và chờ đợi gọi đi thi. Thật không ngờ, cô thi đạt kết quả xuất sắc, với số điểm 96/100. Số điểm chưa bao giờ có trong đợt thi của cô. Nhờ Ơn Trên dẫn dắt, cô được gọi đi làm ngay sau đó một tháng.

Ai cũng biết ở đây thi vào Bưu điện gay lắm. Những người có số điểm từ 80 đến 85/100 phải chờ có khi cả 6 tháng hoặc 1 năm mới được. Trong số cùng thi vào bưu điện, có đứa cháu cũng có bằng ''Associate Degree'', trình độ học vấn hơn cô nhiều, thế mà nó cũng thi rớt. Có lẽ vì nó quá chủ quan.. Còn cô thì rán quá sức, chăm chỉ ôn tập học hành theo bạn cô chỉ dẫn. Do đó cô đạt kết quả như ý muốn.

Thế là cô được đi làm ở Bưu điện Mỹ tại South Boston. Sau 90 ngày của thời gian tập sự, trắc nghiệm làm bán thời gian, cô được công nhân là một nhân viên tích cực và gương mẫu. Cô được tiếp nhận là nhân viên chính thức của Bưu điện tại South Boston. Đây cũng là niềm an ủi cho những nỗ lực vượt bực của cô trong cuộc chạy đua kiếm sống nơi xứ Mỹ.

Cuộc sống của cô từ ngày vào đất Mỹ, đến nay cô mới bắt đầu tạm ổn. Vì cô đã có công ăn việc làm ổn định. Giờ này chồng cô hết lý lẽ để hăm dọa cô và cũng thấy xấu hổ với cô. Bạn bè ai ai cũng bắt đầu thán phục cô. Họ khâm phục cô qua tư cách tốt và tính nhẫn nại vô bờ bến. Cô có cái thông minh hiếm có và quyết tâm kiên cường của người đàn bà Việt Nam tài đức và tiết hạnh. Cô không bao giờ bi lụy vì những tình cảm vụn vặt do tính nết đoan trang, khiến những người đàng hoàng có tư cách phải kính nể và thương mến.

Cô làm Bưu điện được 13 năm, từ năm 1986 đến năm 1999 thì không may bị tai nạn lưu thông. Sau thời gian điều trị, cô trở lại đi làm, nhưng chỉ làm được việc nhẹ do sức khoẻ yếu kém.

Thời gian tại sở làm này cô thường hay bị tên Buzzle, là chủ cai quản nhiệm sở của cô, theo đuổi ve vãn, gò ép cô. Môt phần do nhan sắc xinh đẹp và duyên dáng đã lôi cuốn hắn ta. Hắn đề nghị cưới cô làm vợ. Cô nhất định cự tuyệt. Do đó tên này thất vọng, nên hắn ta bắt đầu làm khó cô. Sau nhiều lần bị quấy rầy. Cô đưa nội vụ này ra Công Đoàn để thưa tên ''supervisor'' với tội danh là quấy rối tình dục. Cô đã thắng kiện. Tên supervisor bị khiển trách và chuyển đi nhiệm sở khác. Nhưng chính cô cũng gặp nhiều khó khăn, trù ếm. Bưu điện quyết định đưa cô đi tái khám sức khoẻ. Bác sĩ của Bưu điện bảo cô: ''Sức khoẻ kém, không còn đủ khả năng, dù làm việc nhẹ (Ligth duty). Như vậy, cô bị ép vào thế phải nghỉ việc vào cuối tháng 12 năm 1999.

Với sự tiếp sức của Công Đoàn APWU (American Postal Workers Union), cô đi kiện thưa đến nơi đến chốn, nhờ sự bênh vực của Công Đoàn, họ biết cô bị hạn chế về Anh ngữ và hiểu biết hạn chế về luật lệ của Sở Bưu điện Hoa Kỳ. Nhờ Công Đoàn phụ lực, cuối cùng Cô được chấp thuận cho nghỉ hưu non, vì lý do bệnh mất sức. Cuối cùng vào tháng 3 năm 2000, cô được quyết dịnh nghỉ hưu non vì bệnh (Disablity Retirement). Với tiền nghỉ hưu sau 13 năm làm việc cho Bưu điện Mỹ. Dù cô nghỉ việc, với số lương hưu, cũng tạm đủ cho cô sống với cuộc sống hiện nay.

Xuyên qua cuộc đời cô, từ lúc còn bé khi lên 10, cô đã có tư tưởng tư lập. Dù hoàn cảnh gia đình, cô chỉ được đi học đến lớp 12 tại Việt Nam. rồi nghỉ học, ở nhà giúp cha mẹ. Nhưng bẩm sinh cô được trời cho một đầu óc thông minh khác thường. Học đâu nhớ đó, phản ứng linh hoạt truớc mọi vấn đề. Cô chưa hề chịu bó tay hay chịu thua bất cứ sự việc gì đến với cô. Cô làm việc gì,nhất định phải đạt đến nơi đến chốn.

So với những ngày đầu đặt chân trên đất Mỹ, cô Tám ngày nay, đã tiến bộ hẳn ra. Dù sức khoẻ có yếu đi nhưng cô vẫn còn đẹp và duyên dáng như thuở nào. Các con cô giờ đã lớn khôn, tất cả đều có gia đình tốt đẹp.

Sự thành đạt của cô và các con của cô là một tấm gương cho những ai muốn thoát ra cảnh khó khăn nơi xứ lạ quê người, phải luôn luôn có quyết tâm như cô Tám, đã làm để vượt qua trong những ngày chân ướt chân ráo đến Mỹ.

Cô Tám cũng còn một niềm hi vọng cuối, mà từ lâu cô vẫn nuôi dưỡng đứa con trai út của cô. Khi chồng cô bỏ cô, vô trách nhiệm với con. Cô phải nuôi con, sống cảnh mẹ góa con côi. Cô đã đơn độc nuôi con học hành hết High School rồi vào đại học.

Năm nay con cô sẽ tốt nghiệp ra trường sau 7 năm theo học ở NU (Northeastern University), tại Boston. Đây là niềm an ủi của cô, đồng thời cũng để trả lời cho chồng cô biết, cô vẫn sống, và hãnh diện vì đứa con đã thành đạt theo uớc vọng của cô. Cô vẫn cho phép nó gặp cha nó, nhưng nó lại không muốn gặp. Nó hận cha nó vì bỏ nó không nuôi dưỡng nó.

Bây giờ những ngày thê thảm vì bệnh tật hoặc bị ruồng bỏ đã qua. Cô cảm thấy nhẹ nhàng thanh thản, nhìn ra ngoài trời đang vào tiết xuân trăm hoa đua nở muôn màu muôn sắc, khiến lòng cô cảm thấy thanh thản hơn. Từ ngày chồng cô bỏ cô đi, gần hơn 12 năm có biết bao người theo chọc ghẹo tán tỉnh, xin hỏi cưới cô làm vợ. Cô đều từ chối và xa lánh vì cô có ý định xuất gia đầu Phật.

Vào ngày Tết Nguyên Đán năm rồi, tôi và bà xã tôi có dịp đi viếng chùa Linh Sơn, một ngôi chùa nữ, nằm trên đồi của một khu rừng trên đường xa lộ 71 nằm giữa đường từ Austin đi Houston. Ngôi chùa này do một ni sư Việt Nam dựng lên cách đây 3 năm.

Giữa cảnh chùa yên lặng tĩnh mịch, với khu rừng thông vắng vẻ hoang vu ở miền Nam nước Mỹ, tôi bất chợt gặp lại Cô Tám. Lần này cô đã xuất gia đầu Phật. Cô đi tu cách đây đã 2 năm.

Tấm gương cô Tám một mình phấn đấu với hoàn cảnh, tự học để đi làm nuôi con nên người, rồi thanh thản vào chùa tụng kinh niệm Phật thật khiến tôi xúc động và quí trọng.

Phạm Thành Tính

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 844,324,318
Tác giả từng sống ở trại tỵ nạn PFAC Phi Luật Tân gần mười một năm. Ông tên thật Trần Phương Ngôn, hiện hành nghề Nail tại South Carolina và cũng đang theo học ở trường Trident Technical College. Với bài "Niềm Đau Ơi Ngủ Yên" viết về trại tị nạn Palawan-Philippines, Triều Phong đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Bút hiệu của tác giả là tên thật. Bà cho biết sinh ra và lớn lên ở thành phố Sài Gòn, ra trường Gia Long năm 1973. Vượt biển cuối năm 1982 đến Pulau Bibong và định cư đầu năm 1983, hiện đã nghỉ hưu và hiện sinh sống ở Menifee, Nam California.
Tháng Năm tại Âu Mỹ là mùa hoa poppi (anh túc). Ngày thứ Hai của tuần lễ cuối tháng Năm -28-5-2018- là lễ Chiến Sỹ Trận Vong. Và Memorial Day còn được gọi là Poppy Day. Tác giả Sáu Steve Brown, một cựu binh Mỹ thời chiến tranh VN, người viết văn tiếng Việt từng nhận giải văn hóa Trùng Quang trước đây đã có bài về hoa poppy trong bài thơ “In Flanders Fields”. Nhân Memorial sắp tới, xin mời đọc thêm một bài viết khác về hoa poppy bởi Phan. Tác giả là nhà báo trong nhóm chủ biên một tuần báo tại Dallas, đã góp bài từ nhiều năm, từng nhận giải Vinh Danh Tác Giả Viết Về Nước Mỹ. Ông cũng là tác giả Viết Về Nước Mỹ đầu tiên có nhiều bài đạt số lượng người đọc trên dưới một triệu.
Với bài “Hành Trình Văn Hóa Việt tại UC Irvine”, tác giả đã nhận Giải Việt bút Trùng Quang 2016. Ông tốt nghiệp cử nhân về Ngôn Ngữ Học tiếng Tây-Ban-Nha tại UC Irvine. Sau 5 năm rời trường để theo học tại UCLA, tốt nghiệp với hai bằng cao học và tiến sĩ về ngành Ngôn Ngữ Học các thứ tiếng gốc La-Tinh, ông trở lại trường cũ và trở thành người đầu tiên giảng dạy chương trình tiếng Việt, văn hoá Việt tại UC Irvine từ năm 2000 cho tới nay. Sau khi nhận giải Việt Bút Trùng Quang 2016, tác giả vẫn tiếp tục góp thêm bài viết về nước Mỹ.
Tác giả 58 tuổi, hiện sống tại Việt Nam. Bài về Tết Mậu Thân của bà là lời kể theo ký ức của cô bé 8 tuổi, dùng nhiều tiếng địa phương. Bạn đọc thấy từ ngữ lạ, xin xem phần ghi chú bổ túc.
Tác giả hiện là cư dân Arkansas, đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2017. Bà tên thật Trịnh Thị Đông, sinh năm 1951, nguyên quán Bình Dương. Nghề nghiệp: Giáo viên anh ngữ cấp 2. Với bút hiệu Dong Trinh, bà dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7, 2016, và luôn cho thấy sức viết mạnh mẽ và cách viết đơn giản mà chân thành, xúc động. Sau đây, là bài mới viết về đứa con phải rời mẹ từ lúc sơ sinh năm 1975, hơn 40 năm sau khi đã thành người Mỹ ở New York vẫn khắc khoải về người mẹ bất hạnh.
Tác giả sinh trưởng ở Bến Tre, du học Mỹ năm 1973, trở thành một chuyên gia phát triển quốc tế của USAID, hiện đã về hưu và an cư tại Orange County. Ông tham gia VVNM năm 2015, đã nhận giải Danh Dự năm 2016 và giải á khôi “Vinh Danh Tác Phẩm” năm 2017. Bài mới của ông nhân Ngày Lễ Mẹ kể về người Mẹ thân yêu ở quê hương.
Hôm nay, Chủ Nhật 13, Mother’s Day 2018, xin mời đọc bài viết đặc biệt dành cho Ngày Lễ Mẹ. Tác giả tên thật Trần Năng Khiếu. Trước 1975 là Công Chức Bộ Ngoại Giao VNCH. Đến Mỹ năm 1994 theo diện HO. Đã đi làm cho đến năm 2012. Hiện là công dân hưu trí tại Westminster. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 8/2015. Đã nhận giải đặc biệt 2016. Nhận giải danh dự VVNM 2017.
Chủ Nhật 13 tháng Năm là Ngày Của Mẹ tại nước Mỹ năm 2018. Mời đọc bài viết của Nguyễn Diệu Anh Trinh. Tác giả sinh năm 1959 tại Đà Nẵng, đến Mỹ năm 1994 diện HO cùng bố và các em, định cư tại tiểu bang Georgia. Hiện là nhân viên công ty in Scientific Games tại Atlanta, tiểu bang Georgia. Bà đã góp bài từ 2015, kể chuyện về người bố Hát Ô và nhận giải Viết Về Nước Mỹ.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ bằng cách viết lời giới thiệu và chuyển ngữ từ nguyên tác Anh ngữ bài của một người trẻ thuộc thế hệ thứ hai của người Việt tại Mỹ, Quinton Đặng, và ghi lại lời của người me, Bà Tôn Nữ Ngọc Quỳnh, nói với con trai.
Nhạc sĩ Cung Tiến