Hôm nay,  

Về Vn Thăm Mẹ, Sau 9 Năm Ở Mỹ

11/10/200500:00:00(Xem: 281318)
- Người viết: PHẠM HỒNG ÂN
Bài số 845-1435-271-vb4101205

Tác giả Phạm Hồng Ân là một nhà thơ rất quen biết với sinh hoạt cựu quân nhân, và cựu tù nhân tại San Diego. Ngay từ năm đầu Viết Về Nước Mỹ, ông đã góp nhiều bài viết đặc biệt. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
*
Chín năm định cư ở Mỹ, tôi vẫn chưa có ý định về thăm Việt Nam. Chín năm quá ngắn ngủi, cho một kẻ trắng tay như tôi, muốn gầy dựng cuộc sống tốt đẹp, bù lại những năm tháng tù ngục ở quê nhà. Nhưng chín năm lại quá dài cho những nhớ thương, những mong đợi ruột rà.
Má tôi đã già. Bà lần mò từng bước đi, khó khăn trong mỗi cách đứng, thế ngồi. Hàng tuần, cứ tang tảng sáng, Má lụm cụm qua nhà hàng xóm, ngồi chờ điện thoại tôi gọi về. Và lúc vừa có tiếng chuông reo, bà đã chụp vội ống nghe, nghẹn ngào nói không nên lời. Má tôi xúc động khi nghe giọng tôi trong máy. Giọng nói quen thuộc của đứa con trai thân yêu, nay dường như xa lạ, qua chín năm dài héo hon trông ngóng.
Rồi có một ngày, lá thư của chị Nhật Nguyễn từ Louisiana gửi đến, trăn trở trong tôi không ngừng :
"...Nhật Nguyễn về Việt Nam lần đầu, sau mười mấy năm trời xa xứ. Về để nhìn mặt Ba lần cuối. Ba đã bị bạo bệnh và rơi vào tình trạng hôn mê - khi Nhật Nguyễn vừa đặt hành lý trên hiên nhà...
Anh còn Mẹ ở Việt Nam chăng" Nếu có, anh hãy một lần về thăm lại gia đình, đừng như Nhật Nguyễn. Khi về, Người đã đi xa..."
Và một thôi thúc lớn nhất, là cú điện thoại thống thiết của Má tôi, như nhắc nhở, báo động cho điều không may sắp xảy ra:
- Con ơi! Chừng nào con về thăm Má"
-Vài tháng nữa, Má ạ! Khoảng tháng mười hai. Con đang lấy vé.
- Tháng mười hai" Lâu quá vậy" Má...sợ...không kịp...
Tôi hoảng hốt: - Không kịp gì" Không kịp cái gì hở Má" Bây giờ, sức khoẻ Má ra sao" Có bệnh tật chi không"
- Không, Má vẫn khoẻ. Con chớ lo...
Chị Nhật Nguyễn ơi! Giọng nói của Má tôi nghe nghèn nghẹn, run run và...yếu đi nhiều. Đúng như lời chị nói, tôi phải trở về, về để thăm lại Má tôi một lần.
Tôi lấy vé máy bay vào tháng bảy, năm 2001. Mười một tháng chín, nước Mỹ bị biến cố thảm khốc. Bọn khủng bố dùng phi cơ dân sự đâm sầm vào hai tòa nhà trung tâm Thương Mại Thế Giới và Ngũ Giác Đài. Một phi cơ dân sự khác, chưa kịp gây tội ác, đã rơi xuống Shanksville ( Pennsylvania), nổ tan tành. Tôi lại hoang mang hoảng sợ, định trả vé máy bay, hủy bỏ ý định trở về.
Nhưng rồi...tháng mười hai lại ồn ào đến, với không khí náo nhiệt của mùa Giáng Sinh. Biến cố đã qua. Nỗi kinh hoàng đã dần dà nguôi ngoai. Hành khách vẫn dùng phi cơ làm phương tiện di chuyển như ngày nào. Rồi, những lá thư, những trông ngóng thiết tha, những cú điện thoại liên tục...Cho đến một hôm Má tôi lâm bệnh nặng. Anh tôi phải đưa vào bệnh viện cấp cứu. Tôi tức tốc trở về Việt Nam, trên chuyến máy bay ngay đêm Giáng Sinh năm đó.
Đường về Chương Thiện xa diệu vợi. Chiếc Van của thằng cháu chạy bạt mạng, nhưng tôi vẫn thấy chậm hơn rùa. Quốc lộ đầy ứ xe. Loại gắn máy hai bánh của Trung Quốc tràn ngập các đường phố. Họ lạng, lách, chen nhau một cách vô trật tự. Họ vượt đèn đỏ, phóng qua ngã tư vùn vụt, bất chấp mọi luật lệ giao thông của cảnh sát. Chỉ còn đoạn đường từ ngã ba Cái Tắc vô Chương Thiện non 60km. Vậy mà tôi cảm thấy dài thườn thượt. Đoạn đường chìm ngập trong bóng đêm. Thấp thoáng những mái lá nghèo nàn, với ngọn đèn dầu leo lét, tối tăm. Rồi, tiếng ghe máy xình xịch trên kinh. Tiếng ca vọng cổ cất lên giữa không gian vắng lặng. Tất cả những âm thanh đó, khơi lại thời trai tráng của tôi, đã hơn một lần nổi trôi theo sóng nước.
Chiếc xe vừa dừng lại trước cổng bệnh viện, tôi vội chạy nhanh vào khu nội khoa. Trời ơi! Má tôi nằm trên giường bệnh đây chăng" Một cụ già nhỏ bé, còm cõi, chỉ còn da bọc xương - đang thều thào một cách tuyệt vọng. Rất khó khăn lắm, Má tôi mới nhận ra tôi. Bà chậm chạp đưa bàn tay gầy gò nắm lấy tay tôi. Và những giọt nước mắt lặng lẽ ứa ra, ướt đẫm mặt gối...
Đêm đó, tôi thức tới sáng để làm một bài thơ nói về Má. Và bài thơ này, chị Phương Lan ở Sài Gòn đã tự nguyện ngâm lên, nghe rất cảm động:
TÔI VỀ NHÌN MÁ TRÊN GIƯỜNG BỆNH
Tôi về dẫm dấu giày lang bạt
Hồn lạc loài như đứa trẻ hoang
Tôi về ôm trái tim tan nát
Nhìn Má nằm im thở nhọc nhằn.


Tôi về úp mặt lên tay Má
Tìm lại bình yên thuở thiếu niên
Ôi, cánh tay gầy như cánh lá
Vườn đời lận đận một niềm riêng.
Tôi về gối mộng lên nguồn cội
Nghe ấm từng chương lục bát xưa
Mười năm tựa áng mây trôi nổi
Bèo giạt, hoa trôi...
chuyện nắng mưa.
Tôi về nhìn Má trên giường bệnh
Bên ánh đèn phai nhạt bóng đêm
Má ơi, con đốt trầm hương cũ
Tìm lại bình yên thuở thiếu niên.
Tôi ngồi thu lu trên chiếc ghế bệnh viện, thiếp đi giây lát. Đêm qua, tôi không ngủ được. Má tôi nằm bất động, trong tình trạng nửa mê nửa tỉnh. Má đã kiệt sức nặng, không thể tự nuốt viên thuốc vào cổ họng được. Anh tôi phải nghiền thuốc thành bột, hòa với nước, đút cho Má uống từng muỗng nhỏ. Giấc ngủ, bây giờ, lại đến một cách mệt mỏi. Nó cứ chập chờn mộng dữ, loáng thoáng những biến động xung quanh.
Tôi muốn ngủ một giấc thoải mái, quên đất quên trời, xua tan đi mọi đau thương đang chồng chéo quanh đời. Nhưng, tiếng gọi nhau ơi ới trong các phòng bệnh, tiếng nước xúc miệng rọt rẹt trên các hành lang, tiếng khóc lẫn tiếng cười vang vang trên lối đi...làm tôi choàng dậy. Tôi ngó thông thống ra cổng bệnh viện. Chương Thiện hừng sáng. Dãy quán phía trước đã cựa mình, thức giấc. Những ngọn lửa bùng cháy. Những cái bàn kéo ra, choán dài trên lề đường. Mùi trà, mùi cà phê ...bốc lên. Mùi thức ăn ngan ngát. Hoà lẫn với mùi nước tiểu ngai ngái, mùi cống rãnh hăng hắc. Tất cả trộn vào nhau, dễ dàng trộn vào nhau, một cách đời thường.
Chín năm ở Mỹ. Chín năm, vợ chồng tôi đùm túm với nhau trong một chung cư rẻ tiền, nằm nơi khu bình dân phía đông của San Diego. Tuy chung cư rất cũ, nhưng với tôi, tiện nghi hơn căn nhà lá rệu rạo của Má tôi rất nhiều. Ôi, căn nhà lá dột trước trống sau, cột chao kèo lệch. Vậy mà, nó đã là nơi trú ẩn của gia đình tôi, là nơi cưu mang tôi từ tuổi ấu thơ cho đến lúc trưởng thành. Mùa nắng, căn nhà lấp lánh ánh sáng. Hằng trăm mảng nắng, rực rỡ xuyên qua khe lá, rớt tinh nghịch xuống nền nhà. Tối đến, khung cảnh dường như thơ mộng hơn - ánh trăng xuyên thấu qua mùng, rải thần tiên đầy trên gối, đưa tôi vào giấc mộng êm đềm của tuổi ấu thơ. Mùa mưa, cực nhất. Má phải bắt thang lên mái, chèn lại tấm lá, buộc lại sợi lạt. Thế mà, mưa vẫn dột. Mưa dột từng hạt. Hạt này đến hạt kia. Rồi, cả chuỗi hạt...đua nhau rơi lách tách xuống nền nhà. Má phải chạy lăng xăng đi kiếm từng cái thau, từng cái lon...để hứng nước. Gặp trận mưa dầm, Má đành loay hoay trên nền nhà lầy lội đó - suốt ngày, suốt đêm.
Tôi nhớ đến bữa cơm đoàn tụ, trong căn nhà nghèo khổ này. Hiếm hoi lắm, mới có đủ mặt anh em tôi. Hiếm hoi lắm, những thằng con từ chiến trường khắp nơi, rủ nhau về cùng một lúc. Khi ấy, Má tất bật suốt ngày. Cái bếp, tội nhất, không ngớt lửa hồng. Món này đến món khác, Má cứ liên tục nấu nướng, cho anh em chúng tôi ăn uống thỏa thuê. Những bữa đoàn tụ như thế, Má lặng lẽ tìm một góc nhỏ nhoi, kín đáo nhìn từng đứa con. Má nhìn từng đứa, rồi kéo khăn lên lau nước mắt. Má buồn cho thân phận nhà nghèo, không đủ sức nuôi các con ăn học đến nơi đến chốn.
Sau chín năm ở Mỹ, tôi vẫn cà rịch cà tang, chưa khá hơn ngày xưa chút nào. Đồng lương đã tối thiểu, lại bị xâu xé bởi các quan hệ chằng chịt của đời sống. Nào bảo hiểm xe cộ, bảo hiểm sức khỏe, an sinh xã hội, tiền nhà, tiền bill, tiền học, tiền chợ, đám cưới, đám ma, niên liễm, cứu trợ...v..v... Còn lại một ít, gửi về Việt Nam, chia tứ chia tam cho các thân bằng quyến thuộc trong gia đình. Tôi chưa cất được một căn nhà, tạm gọi là khang trang, cho Má tôi an vui trong tuổi cao niên. Bây giờ, biến cố xảy ra quá nhanh chóng. Má tôi lâm bệnh. Lâm trọng bệnh. Những đồng đô la tôi dành dụm từng giờ từng ngày, những chai thuốc đắt tiền, cộng với tấm lòng báo hiếu thiết tha... đã trở nên vô nghĩa trước sinh mạng của Má tôi rồi"
Dần dà, ngày trở lại Mỹ của tôi cũng phải đến. Trước khi đi, tôi đem Má về nhà, mướn bác sĩ chăm sóc hàng ngày. Vài tuần sau, một email của cô cháu từ Việt Nam báo tin: Má từ trần. Tôi lặng người trong giây lát. Tôi không thể cưỡng lại những điều định mệnh đã an bày. Những điều phải đến - giờ đây - nó đã đến. Tôi chỉ còn biết làm dấu thánh giá, rồi... gục mặt xuống chiếc bàn quen thuộc hàng ngày.
PHẠM HỒNG ÂN

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 844,601,534
Tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2012, với những bài viết linh hoạt về đời sống tại Mỹ. Nhiều bài và hình ảnh của ông hiện được phổ biến trên mạng internet, một số đã thành sách "Xin Em Tấm Hình". Bài mới nhất của tác giả là một du ký về Prague, trước đây là thủ đô Tiệp Khắc, nay thuộc cộng hòa Czech. Đây là nơi có khu thương mại Việt lớn nhất Âu châu.
Tác giả là một kỹ sư công chánh, cư dân Torrance, California, đã góp bài Viết Về Nước Mỹ từ năm 2002. Ông cũng đã xuất bản một số du ký như: “Á Châu Quyến Rũ”, tập 1 & 2 và “Đi Cruise Bắc Mỹ” hiện có bán tại các nhà sách trong vùng Little Saigon. Bài viết mới của tác giả là một du ký kể về chuyến du lịch Thụy Sĩ trên tuyến xe điện kỳ thú có tên Bernina Express.
Tác giả là một cây bút nữ, cư dân San Jose, đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Sang năm thứ 18 của giải thưởng, Lê Nguyễn Hằng nhận thêm giải Vinh Danh Tác Giả, với bài viết về “Ba Thế Hệ Tuổi Dậu” và bài “Từ Độ Mang Ơn”, kể chuyện tác giả bay đến thăm đôi bạn Mỹ bảo trợ tại vùng vịnh Tillamook, Oregon.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ. Ông tên thật Nguyễn Đức Tâm, sinh năm 1951 tại Quảng Trị, tốt nghiệp Đại Học Luật Khoa Huế năm 1974, vượt biển đến Mỹ năm 1980. Làm chủ nhà hàng từ 1983 đến 2004, hiện đang làm địa ốc và thông dịch bán thời gian và là cư dân West Chester, PA.
Tác giả tên thật Nguyễn Hoàng Việt sinh tại Sài Gòn. Định cư tại Mỹ năm 1990 qua chương trình ODP (bảo lãnh). Tốt nghiệp Kỹ Sư Cơ Khí tại tiểu bang Virginia năm 1995. Hiện cư ngụ tại miền Đông Nam tiểu bang Virginia. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ cuối năm 2016, bài viết thứ tư của ông là chuyện tình của một người... trúng số.
Tác giả là một huynh trưởng Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu tiên, nhận giải bán kết - thường được gọi đùa là giải á hậu 2001. Từ nhiều năm qua, ông là thành viên ban tuyển chọn chung kết. Sách đã xuất bản: Chuyện Miền Thôn Dã.
Tác giả tên thật là Trương Nguyên Thuận, tuổi 60', cựu sĩ quan không quân VNCH, di tản sang Mỹ từ 1975, kỹ sư điện toán, từng làm việc với Hewlett Packard/ Houston... rồi mở lò dạy võ tại Houston. Ông đã góp nhiều bài viết đặc biệt và nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ 2004. Sau nhiều năm ngưng viết, ông vừa trở lại với sức viết mạnh mẽ. Sau đây, thêm một bài viết mới.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ. Ông tên thật Nguyễn Đức Tâm, sinh năm 1951 tại Quảng Trị, tốt nghiệp Đại Học Luật Khoa Huế năm 1974, vượt biển đến Mỹ năm 1980. Làm chủ nhà hàng từ 1983 đến 2004, hiện đang làm địa ốc và thông dịch bán thời gian và là cư dân West Chester, PA.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ 2017 và đã nhận giải đặc biệt năm thứ mười tám. Bà cho biết bút hiệu là tên thật, trước là nhà giáo tại Việt Nam, định cư tại New Jersey năm 1994 theo diện HO. Sau đây là bài viết mới của bà.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ. Theo bài viết, tại Việt Nam cô học đại học tổng hợp ngoại ngữ. Mười ba năm trước, sau khi kết hôn với một nhạc sĩ Mỹ, cô theo chồng về Sonoma County, vùng đất nổi tiếng với vượu vang của Napa Valley. Hiện nay, gia đình đã dọn về San Diego và tác giả đang làm công việc thông dịch viên chính thức của Tòa Án Liên Bang. Mong Quynh Gibney tiếp tục viết.
Nhạc sĩ Cung Tiến