Người viết: TRƯƠNG NGỌC BẢO XUÂN
Bài số 724-1303-72-vb2-041105
Một số bài Viết Về Nước Mỹ năm 2005 đã được dành đăng vào báo xuân Việt Báo năm Ất Dậu, nay được đăng lại theo yêu cầu. Sau đây là bài của tác giả Trương Ngọc Bảo Xuân, giải thưởng chung kết Viết Về Nước Mỹ năm đầu tiên 2000-2001.
*
Mưa. Mưa tầm tã. Mưa ào ào. Mưa tuốt hết lá cây, cành gẫy rớt rào rạo trên mái nhà. Mưa làm sạch từng nhánh lá trên cành mấy cây ăn trái ngoài sân sau. Mưa làm gãy nụ hoa làm tả tơi bông mới nở. Nằm nghe mưa, lòng tôi chùng lại. Tôi nhớ đoạn đường dài sống trên đất Mỹ, hỉ nộ ái ố có đủ. Tôi nghĩ tới má tôi. Lúc gần đây Má hay than "sao má hay bị mệt..."
Má tôi. Năm nay tám mươi tuổi.
...
Từ năm Mậu Thân sau khi ba tôi bị Việt Cộng bắn chết, má buôn bán quần áo con nít, để nuôi đám con bảy đứa, đứa nhỏ nhứt chưa tới ba tuổi. Thấy lũ con không ai bảo vệ, đêm đêm đi ngủ má tôi thủ sẵn con dao, dằn dưới gối.
Năm 1969 tôi có chồng Mỹ, má đi cầu hồn ba tôi hỏi ý kiến trước khi tôi theo chồng đi Mỹ cuối năm 1970.
Cuối tháng Tư 1975, sống tại Mỹ, ngày ngày coi tin tức trên TiVi nhìn thấy làn sơn màu đỏ tượng trưng cho chế độ cộng sản chảy dài từ vĩ tuyến 17 chảy xuống, tôi khóc hết nước mắt.
Cho tới khi thình lình nhận điện thoại thằng em. Thì ra, ngày 25 tháng Tư năm 1975, má tôi cùng với mấy đứa em được máy bay C-130 bốc ra khỏi địa ngục trước khi Sài Gòn lọt vô tay cộng sản.
Ngồi trên máy bay rồi mà lòng chưa yên, chưa tin chưa mừng. Tánh má tôi hay lo. Lo đủ thứ, lo chuyện đã qua và lo chuyện chưa tới. Má nói với nhỏ em tôi:
- Thấy chưa, nhờ Ba tụi bây độ mình mới thoát đó, thấy chưa"
Chẳng là vầy, H. V. Ngà, lính không quân, bạn của em tôi, thúc giục -gia đình bác có rể người Mỹ, phải tìm cách đi khỏi Sài Gòn - mấy mẹ con lấn đại vô Tòa Đại Sứ Mỹ ở đường Hồng Thập Tự chen lên xe buýt. Hai đứa con lên lọt, má với một đứa bị lấn văng xuống đất, lạc nhau. Vậy mà bị tách ra làm hai tốp, hai má con quá giang xe người hàng xóm là tài xế làm việc cho hãng Mỹ, vô cửa hông, gặp lại mấy đứa con ở phi trường Tân Sơn Nhứt. Nằm lì trên sàn gạch trên ghế gãy ngoài sân, ngay trước cửa DAO, chờ máy bay, hai ngày hai đêm.
Má nói mấy mẹ con nhứt định phải ra khỏi Sài Gòn. Má nằm chiêm bao cứ thấy ba bây về biểu má ráng đem tụi bây đi khỏi xứ nầy. Đi đại con.
Bữa tối trước ngày 27 nằm rút chân rút cẳng trên cái băng cây, má mệt mỏi quá làm như thiếp đi nghe văng vẳng bên tai tiếng Ba tôi thúc - đi đi đi đi ... họ kêu đi ghi danh lên máy bay kìa, chuyến chót 10 giờ kìa, đi đi...
Má giựt mình tỉnh lại thấy mấy đứa con nằm la liệt dưới đất. Má kêu hai đứa con gái chạy đi ghi danh. Chạy tới nơi cửa phòng đã đóng. Hai đứa ngồi bẹp xuống đất đợi. Không nhớ bao lâu, tới khi có người lính Mỹ mở cửa, hai đứa năn nỉ cho vô ghi danh, y nói đủ danh sách đi chuyến cuối rồi, nhưng có lẽ thấy hai đứa con gái nhỏ xíu mặt mày hớt hải nhợt nhạt sợ thất sắc của tụi nó hay sao mà y xiêu lòng mở hé cửa cho hai đứa vô ghi danh ép thêm chuyến bay cuối cùng.
Má nói Ba bây độ! Rõ ràng ổng kêu má thức dậy đặng kêu tụi bây, hông thôi đâu được đi kịp chuyến nầy. Khuya đêm đó phi trường Tân Sơn Nhứt bắt đầu bị giội bom ầm ầm, người chết la liệt!
Chiếc C-130 ngừng ở phi trường Hạ Uy Di, người thông ngôn nói ai có thân nhân ở ngoại quốc được quyền gọi điện thoại báo tin.
Sau khi dò biết tin nhóm tị nạn này được đưa từ đảo Wake qua trại Pentleton, vợ chồng tôi đã tới trại đón má với bốn em ra khỏi trại.
. . .
Tội nghiệp mấy đứa em, gặp con chị ngu như tôi, đã mất đi dịp học hỏi về đời sống ở đây, về cái bộ xã hội, về vụ "ăn weofair" để đi học.
Vì sự thiển cận của tôi mà tụi nó đã phải vô hãng may làm phụ giúp gia đình. Má tôi cũng vô hãng may. Báo chí địa phương tới phỏng vấn, đài truyền hình Eyes Witness của thành phố Reno thuộc tiểu bang Nevada lúc đó có vô hãng Western Curtain chuyên may màn, tấm trải giường, đồ dùng trong bếp... gia đình đang làm việc, quay phim thời sự, quay ngay Má, hình ảnh một bà mẹ Việt Nam tị nạn đầu tiên đang ngồi may với nụ cười rạng rỡ trên môi. Tôi biết má đã mừng, đã nói với hương hồn ba - Nè, cả đám con mình, tui đem được qua Mỹ rồi.
May "ăn miếng" nghĩa là may càng nhiều càng được thêm tiền, má ăn đứt mấy bà Mỹ, nội trong hãng chỉ thua có... hai đứa con mình. Hai đứa em gái tôi, Ngọc Anh với Kim Loan may giỏi nhứt hãng, giỏi tới nỗi bị chúng ghét!
Những cái màn cửa loại drapes, những tấm trải giường King size, Queen size nặng vừa gì, khi may má phải vác lên vai. Vậy mà má vẫn cười tươi tắn. Má ngồi may như vậy cho tới năm 1978 rồi ở nhà giữ mấy đứa cháu cho chị em tôi đi làm.
Má để dành tiền hay lắm. Mua chiếc Omega màu xanh cho hai đứa con gái. Mua được cho thằng em một chiếc xe hiệu Honda mới tinh. Má cứ khuyên nó trở vô trường học lại. Nó không chịu, nói Má đi làm thì nó cũng đi làm.
Năm 1968 khi ba chết má mới 42 tuổi, còn trẻ lắm. Dì Tư tôi có lần tính làm mai má cho một người đàng hoàng. Ông này có tới nhà một lần, người vui vẻ trẻ trung. Má chỉ tiếp ông một lần đó rồi nhắn nhủ gì với dì mà tôi hổng thấy ổng tới nữa.
Còn người khác, một người là người thương hồi má mới 16 tuổi có nhắn lời xin phép cho y tới thăm để chia buồn, má đã nhắn lời nói "buồn nầy đâu ai chia được" và từ chối không gặp mặt.
Qua Mỹ lúc ngồi may cũng có một ông thợ sửa máy may cứ xách thùng đồ nghề lẩn quẩn muốn sửa máy của má hoài lúc chưa có hư gì hết, Má tôi cũng dửng dưng.
Má xúi mua nhà. Nhà có miếng đất phía sau, trồng một cây bôm và bông hồng đủ màu.
Má nói phải kiếm rau thơm, ăn canh chua ăn chả giò hổng có rau vô vị làm sao á.
Hồi đó, năm 1975 ở thành phố Reno thuộc tiểu bang Nevada chỉ có một tiệm Tàu. Đồ ăn ít ỏi, người Tàu chánh gốc ở Mỹ đâu biết ăn rau sống rau thơm.
Tình cờ một bữa nọ đi dọc lề đường má bắt gặp một nhánh rau húng cá mọc hoang, má xề xuống mắt sáng rỡ miệng cười hớn hở bươi lên đem về mừng lắm, cắm xuống đất ngoài sân sau. Vậy mà chỉ một cọng cứ lần lần đâm chồi lan ra, ăn đã đời còn chia cho mấy gia đình tị nạn Việt mới được mấy hội nhà thờ bảo trợ qua.
Về sau những người vượt biên qua có vài người giỏi làm sao! Họ chia cho mấy hột giống bí bầu rau cải đem đi được. Má dựng liền giàn bầu giàn bí.
Má trồng một vườn rau thơm: húng cây, giấp cá, kinh giới, bạc hà, tía tô...
Má trồng một cây trúc xanh.
Má tôi, đem quê hương thứ nhứt trồng vô lòng quê hương thứ hai.
Trong nhóm thanh niên bạn thằng em trai có mấy cậu cứ tới lui đánh bóng bàn với nó hoài. Tui thấy họ cứ liếc ba đứa em gái 20, 17, 14 của tui. Má dặn chừng: Mấy đứa nầy bỏ vợ bỏ con ở lại Việt Nam, tụi bây coi chừng. Đừng làm khổ vợ con người ta.
Rồi má bắt tôi phải nói thẳng ra cho mấy cậu đã có vợ rồi làm ơn đừng thân mật với mấy đứa nhỏ. Giữ tình bạn tình anh em là tốt lắm rồi. Lần lần mấy người đã có gia đình xa lánh gia đình tôi.
Tôi nghĩ có lẽ má cũng đã cầu hồn ba tôi giúp ý kiến như hồi trước khi tôi theo chồng về Mỹ má cũng đã đi cầu hồn ba tôi vậy.
Mấy năm đầu, món ăn nào má cũng tự tay chế biến ở nhà cho đám con ăn.
Làm bánh ướt thì lấy cái nồi đổ đầy nước mấp mé, bịt kín bằng tấm vải mùng cột dây lại. Đợi hơi nóng bốc lên mới cầm giá múc nước gạo ngâm xay nát quậy với chút muối tráng một lớp mỏng lên miếng vải căng thẳng như mặt trống. Chừng lớp bột tạo thành lớp bánh, cầm chiếc đũa lăn đều lấy gọn lên, thành cái bánh cuốn.
Má mua đậu về nấu gì đó hổng biết rồi ngâm cả bình tương hột. Món tương hột xào mỡ hành, châm chút đường chút ớt, khi ăn chấm dưa leo ngon khỏi chê.
Nói đúng ra từ hồi ba chết tới giờ, má nấu ăn bớt ngon rồi. Có lẽ má mất đi hết nửa thân người, nửa thân đó chết theo ba. Nửa thân còn lại hết ngân ư ử trong miệng những bài ầu ơ ru con...
...
Năm 1978 má gởi đại về Việt Nam một lá thơ cho dì Năm. Gởi là gởi cầu may thôi, vậy mà thơ được hồi âm. Mừng hết lớn. Chuyền tay nhau đọc, được biết dì sẽ cho đứa con trai “đi thăm quê”, ý nói là vượt biên bằng đường biển.
Đứa con trai qua tới đảo Puala Bidong bình yên. Dì gởi thơ cho biết tới phiên dì cùng vợ chồng đứa con gái út và một đứa cháu ngoại đang trên đường về quê thăm ba tui. Tức là cũng vượt biên.
Những gói quà hai cân được má lựa mua từ món gởi về Việt Nam cho dì cho cháu.
Bên này, má sửa soạn để đón rước, trước đó là chuẩn bị đặng bảo lãnh dì. Má có khi bịnh cũng ráng đi làm vì có việc làm mới có thể bảo lãnh thân nhân qua.
Vậy mà trời đất nổi cơn bão biển, đánh chìm chiếc ghe của dì Năm, cả gia đình mất tích.
Má buồn vô kể, nói thôi từ nay về sau hổng có xúi ai vượt biên hết á, ai muốn đi thì tự ý, như vậy lỡ có chuyện gì mình hổng ân hận.
Má làm giấy bảo lãnh gia đình dì Tư và dì Bảy. Dì Bảy có người con ở tù cải tạo nên khó mà qua, còn dì Tư thì chỉ có hai vợ chồng già với đứa con gái nên má hy vọng lắm. Tụi tôi cũng ước gì má có một hai chị em ở đây cho má đỡ cô độc.
Năm 1979 má theo mấy đưa em ghi danh học tiếng Anh. Thời đó đâu có được như bây giờ. Trường trung học mở lớp dạy tiếng Anh cho một nhúm người Việt tị nạn, học trò phải hùn tiền vô để trả tiền xăng cho bà giáo sư dạy tình nguyện. Má học tiếng Anh giỏi lắm, được cấp cho chứng chỉ tốt nghiệp, mặc dầu nhiều khi má lộn "tôi bỏ cái bóp của tôi vô đôi giày!"
Má muốn học lái xe mà trong nhà chẳng mạng nào có can đảm dạy.
Tụi tôi bàn đi đâu cũng có người chở đi, má học lái làm chi cho nguy hiểm.
Bên Việt Nam má biết lái xe Vespa.
Má than: "Phải chi ba tụi bây còn sống, ổng có xe hơi chở má đi chơi. Ba bây thích đi du lịch lắm" nói rồi thở dài...
Trời mưa. Có ai nhớ rằng, giọt nước mình uống bây giờ, theo sự tuần hoàn của vũ trụ, nước bốc hơi lên trời trời làm mưa đổ xuống từ biển nước chảy vô sông trở về nguồn và lại bốc hơi lại mưa xuống lại theo sự tuần hoàn của vũ trụ cũng như hiện tại mình đang uống giọt nước từ triệu triệu năm trước thưỏ sinh thiên lập địa. Và rồi triệu triệu năm sau con cháu, chắt của mình cũng vẫn uống lại giọt nước tuần hoàn nầy.
Tình mẹ. Người mẹ tượng trưng cho sự bao la vĩnh cửu của thiên nhiên. Như dòng nước từ nguồn đổ ra. "Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình...." Tôi nghĩ, năm cái biển lớn cộng chín con sông dài nhứt thế giới cũng chưa bằng lòng mẹ thương con.
Có lần má tôi dặn:
"Lúc nầy sao Má cứ mệt mệt hoài. Rủi má có gì thì nhớ kêu thầy tới tụng kinh rồi đốt thây đem đổ xuống biển."
Tôi hiểu. Tôi hiểu ý má. Má muốn đi tìm ba tôi.
Má tôi thương ba tôi, má lo trước cho giờ phút cuối. Má muốn khi chết đi hồn má sẽ đi tìm Ba dưới đáy biển Đông vì năm 1979 dì Năm tôi đã ôm bình cốt của ba tôi vượt biên và chìm tàu chết cả gia đình.
Và tôi tin, dĩ nhiên, tấm lòng chung thủy của má sẽ gặp linh hồn tự do của ba tôi dưới đáy biển Đông.
Tuổi thanh xuân của Má có qua mau nhưng má làm tròn bổn phận của một ngưòi vợ, người mẹ đúng nghĩa câu "Xuất giá tùng phu. Phu tử tùng tử".
Qua Mỹ năm 1975, má mới có bốn chín tuổi. Năm tới má sống ở Mỹ đúng ba chục năm. Ba chục năm, lúc nào má cũng nhắc nhở chị em tôi: đừng quên nước Mỹ đã cưu mang mình, trường hợp đâu khác gì cha mẹ nuôi không sanh nhưng có công dưỡng. Đời ba má cực khổ, đời tụi con khổ cực, tương lai cháu mình xán lạn sống trong một nước tự do dân chủ là hạng nhứt rồi.
Dầu đã vô dân Mỹ, má cũng không nói được gì ngoài Helo, How are you, Thank you.
Má nói má sanh ra là ngưòi Việt, khi nhắm mắt, má cũng là người Việt.
Chồng tôi thường nói với những người quen: má vợ tôi là một người đàn bà Việt Nam rất dũng cảm.
Má tôi năm nay tám mươi tuổi...
TRƯƠNG NGỌC BẢO XUÂN