Năm 2005 sắp tới là thời điểm ghi dấu 30 năm người Việt vượt biển tìm tự do. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ mong nhận được những bài viết đặc biệt cho thời điểm này. Sau đây là bài viết về đảo Guam 1975 của Dân Đen Đệ Nhị Bảo Bình. Tác giả cho biết ông tên thật là Lý-Văn-Năm sinh năm 1950, cựu học sinh trường Trần Lục/Chu Văn An 63/70, cựu sĩ quan Hải Quân QLVNCH. Hiện là kỹ sư điện tử làm việc tại tiểu bang Oklahoma. Hy vọng bài viết của ông sẽ gợi ý cho nhiều hồi ức đặc biệt khác.
*
Lời tác giả: Cốt chuyện nầy thật sự xảy ra tại hải đảo Guam, sau khi miền Nam xụp đổ, quân dân Việt Nam phải di tản đến nước Mỹ năm 1975. Sắp gần 30 năm kể tư ø ngày tan hàng, tác gỉa lúc nào cũng mong muốn biết tin tức của nhân vật đựơc gọi bằng “ông Hạm Phó”. Bây giờ và mãi mãi, tấm lòng thủy chung của nhân vật Hạm Phó luôn luôn in hằn trong tâm tửơng của tác gỉa, chắc chắn… cho đến hết cuộc đời. Mong ông được bình an, thanh thản sau bao cơn sóng gió.
*
Tin tức nổi loạn từ trại tỵ nạn Asan loan truyền thật nhanh, không những trong các trại khác ở lân cận mà còn lan rộng đến mọi người dân địa phương ở đây. Tất cả các đài truyền thanh, truyền hình trên hải đảo Guam đều sôi nổi bình luận, đề nghị những giải pháp với chánh phủ về vấn đề đòi hỏi của một số dân tỵ nạn xin trở về Việt Nam.
Đài truyền hình địa phương khai thác tận tình về việc mấy tên lính Mỹ bị đánh đập tơi tả, bàn ghế bị đập phá tứ tung, cộng với việc khai hỏa đốt trại làm mọi người đều sợ, nhất là bọn thông dịch viên làm việc cho sở Di Trú ở đây.
Dũng chẳng biết tin tức đó cho tới sáng ngày hôm sau vụ nổi loạn, khi đã sẵn sàng chờ xe bus xuống trại Asan để làm việc. Ông xếp đã đứng sẵn ngoài cửa, bảo bọn Dũng phải đợi ở khu cư xá này cho tới khi có lệnh mới.
*
Trời tháng Năm ở hải đảo Guam nóng như lò lửa, bên trong căn lều nhà binh dầy chịt, không gió, sức nóng càng tăng thêm. Trung úy Hoài chạy chung một tàu từ Bộ Tư Lệnh Hạm Đội tới đây, xách khăn gói ra bờ biển GapGap, chắc đang nằm ngủ dưới gốc cây dừa nào đó. Dũng không muốn đi, không muốn làm gì hết, cái độ nóng thiêu đốt cháy da làm có thể Dũng đâm ra lười biếng, mệt mỏi, chậm chạp.
Những ngày hôm nay, Dũng vẫn không muốn sắp hàng làm thủ tục sang lục địa, cố ý chần chờ ở đây để mong tìm kiếm thân nhân, nhưng vẫn bằn bặt tin tức.
Căn lều của Dũng nằm gần cổng chánh nhưng cũng gần dẫy nhà cầu cho dân tỵ nạn, có lẽ tụi Mỹ bỏ chất thuốc gì đó hay là cái mũi của Dũng đã quen nên không cảm thấy mùi hôi gì hết. Phía đằng sau cũng là nhà tắm lộ thiên, nhộn nhịp nhất là buổi tối mấy cô, mấy bà đưa nhau đi tắm, đi giặt. Xa hơn nữa là cái trạm nấu ăn. Mỗi lần trại cho ăn cá Tuna hay là thịt Gà đóng hộp là cả lều đều biết trước, bởi vì cái mùi hôi nặng của cá hộp, gà hộp cứ bay ra quanh quẩn đến lều.
Bé Hiệp, con của một người trong lều, lên tiếng khi thấy một người đàn ông bước vào:
-Chào chú!
Dũng ngẩng đầu lên, thì ra là ông Hạm phó của Dũng tạt ngang:
- Dũng này! Có muốn đi hái dừa xiêm không"
- Chào Hạm phó! Hái dừa ở đâu vậy"
- Ở về phía Tây Nam của trại Orote nầy. Mấy “thằng em” ở cùng lều mới cho tôi biết . Ông ta nói.
*
Ông Hạm Phó, sĩ quan Hải quân Nha Trang là đàn anh trước Dũng rất nhiều khóa. Cả hai cùng phục vụ trên chiếc tàu tiếp tế của Hải Đội Vận Chuyển một năm về trước
Ông ta có khuôn mặt thông minh, nhưng nổi bật nhất là cặp mắt thật to-một trông bốn loại người khó tánh- “Nhất lé, nhì lùn, tam hô, tứ lộ” Uống một ngụm bia là mặt đỏ bừng.
Cái tuổi đời hơn ba mươi của ông mới lập gia đình chắc hẳn nếu không phải khó tính thì cũng là một tay kén chọn người vợ rất kỹ lưỡng.
Ngày cưới của ông ở mãi tận xứ Gò Công, thật xa thành phố, cả toán sĩ quan của tàu đèo xe Honda đi ăn cưới mà cứ lo ngay ngáy mấy thằng VC chặn đường, ngày ấy cách đây không lâu lắm.
Trên tàu, mỗi lần đi nhậu, có hai tên phá mồi là Hạm phó và Dũng - Sĩ Quan Tiếp Liệu. Nhưng có ai dám làm mất lòng hai tên này đâu" Tội gì mà mất lòng, hai tên này toàn là chổ “nhờ cậy” không" Họ mà ghét thì mai mốt đừng có hòng mà năn nỉ “giúp đỡ” này nọ.
Những ngày ấy, Dũng cũng đang học Luật với ông ta, đang lúc công tác ở Mỹ Tho, cả hai được Hạm trưởng ký sự vụ lệnh, khăn gói về Saigon đi thi, như những thí sinh “trói gà không được chặt” làm mấy ông thượng sĩ già lắc đầu lia lịa.” Mấy ông quan tàu thủy này định lập chí lớn gì đâ"”
Những ngày công tác ở Vũng Tàu, cả băng sĩ quan độc thân Nha Trang được lòng mấy em nữ sinh trường Pháp. Cũng hẹn hò thắm thiết cảm động dài dài, cũng tiếu lâm, chọc ghẹo thân tình, lại học được mấy em hai tiếng “Xì trum”. Sau đó trên tàu hai tiếng “Xì trum” thông dụng được các quan xử dụng dài dài trong những ngày công tác.
Những ngày tàu đậu ở Saigon, kể cả Hạm trưởng, cả băng sĩ quan Nha Trang kéo tới nhà bố vợ một sĩ quan niên trưởng -Trung úy Long- hào hoa phong nhã để tập “nhẩy đầm” mệt nghỉ.
Mỗi khi tàu về Saigon trong dịp cuối tuần, lại có mục tới trường đua Phú Thọ để thưởng thức những món ăn thật ngon, cũng để cả bọn “tập tành” thử mùi đánh cá ngựa.
Những kỷ niệm thật vui của một sĩ quan đàn em đối với niên trưởng nhiều đến nỗi hai tiếng “Hạm Phó” cũng không thể nào bỏ được.
Có lúc ông ta bảo Dũng:
-Anh đừng gọi Hạm phó nữa. Đất nước, quân đội của mình tan nát hết rồi! Gọi như vậy người ta nghe được, khó chịu lắm!
Dũng lặng thinh, cười trừ, cứ bảo là sẽ bỏ, mà không thể nào “dứt điểm” được cái danh từ xa xưa đó được.
Ngay hôm qua, Hạm phó khuôn mặt nửa buồn, nửa vui bảo Dũng:
-Tôi nghe tin Cao Ủy Liên Hiệp Quốc bắt đầu nhận đơn những dân tỵ nạn muốn xin về Viêt Nam, Chắc tôi sẽ trở về....
Dũng kinh ngạc, la lớn:
-Bộ Hạm phó không sợ tui nó làm thịt hay sao" Về lúc nầy thì chỉ có nước chết mà thôi...
-Tôi cũng nghĩ vậy, nhưng nhà tôi đang có bầu, lại yếu ớt quá, không biết có chịu nổi cảnh sống dưới chế độ mới hay không" Tôi đã hèn nhát chạy tới đây cũng vì sợ chết cho thân mình, bỏ lại vợ con. Trời cao, bể rộng biết đến bao giờ gặp lại. Lỗi lầm này chỉ có một đường là trở lại, cũng như một lần chuộc lỗi với người vợ thương yêu.
Ông ta nói xong, lặng nhìn cái nhẫn vàng đính hôn trên bàn tay trái, cặp mắt xa diệu vợi.
Dũng cũng lặng thinh, không biết nói thế nào đây. Không lẽ gọi ông là kẻ ngu đần! Dũng còn quá trẻ, độc thân, không hề biết được cái tình cảm của một người chồng đối với vợ, với con.
Khi còn tại chức, Hạm phó là một vị chỉ huy rất khó tánh, ông dùng lý trí để điều hành chỉ huy công việc hàng ngày, thẳng thừng trừng phạt những nhân viên bê bối, không bao giờ để tình cảm chi phối. Dũng không ngờ tới bây giờ ông lại quá yếu ớt, giống như một kẻ “nhi nữ thường tình.”
Anh Tịnh, người ở cùng lều, nghe vậy, cũng lên tiếng:
-Ông Phó à! Theo tôi nghĩ, ông nên nấn ná ở lại đây. Có thể, mấy ông Tướng yêu nước sẽ trở về lập khu kháng chiến, một vài năm thế nào cũng giải phóng được Viêt Nam. Ông trở về lúc này thì khác gì “đưa dê vào hang cọp”, tụi nó không giết thì cũng cầm tù ông suốt đời. Cái gương ngoài Bắc năm 1954 còn rõ ràng ra đó. Mấy thằng thanh niên đảng viên trung thành thế đó, đấu tố cả cha mẹ, mà tụi nó còn cầm tù, giết hết. Còn tụi mình lính tráng, công chức của chế độ cũ, hận thù mấy chục năm, thì đừng hòng ở yên với tụi nó. Ông về lúc này thì chẳng giúp gì cho vợ con hết, mà lại thêm khổ sở cả gia đình...
Ông Tịnh nói rất nhiều, nhưng Dũng cũng đã biết tánh ông Phó từ lâu. Dự tính trở về cố hương kỳ này chắc ông ta đã có quyết định rồi!
Dũng nói:
-Nếu Hạm Phó quyết định trở về thì thử xem tình hình ra sao" Coi thử Liên Hiệp Quốc có bảo đảm gì hay không" Sau đó thì ghi danh cũng chưa trễ"
Hạm Phó lặng thinh, gật đầu bước trở về lều, đầu cúi xuống. Mới có mấy ngày mà ông ta trông già hẳn ra.
Mới một thoáng qua đây, cả một hạm đội hùng mạnh, lực lượng bảo toàn, thế mà lẳng lặng rút lui, bỏ ra biển, đem theo những gia đình thân nhân của những vị quan lớn. Có lẽ đất nước chiến tranh lâu quá rồi, những ý niệm công bằng, ngay thật cũng đã bị bom đạn, chết chóc tàn phá. Thời thế đưa đẩy, không còn lý tưởng, không còn danh dự một đời. Bây giờ chỉ là những chăm sóc, những sự bảo vệ cho bản thân, cho gia đình của mình mà thôi. Bất kể từ vị tướng chỉ huy hay một thủy thủ thấp nhất, khi đã “tan hàng” thì ai nấy đều bình đẳng với nhau không còn hơn kém. Phải giữ lấy mạng sống của họ trước hết như là một sự tự nhiên không còn cách khác.
*
Dũng nhìn ông Phó, để nhận xét khuôn mặt của ông về quyết định ngày hôm qua, nhưng không muốn bàn đến chuyện trở về khó nghĩ đó nữa. Chuyện ông Phó rủ đi hái dừa xiêm thấy dễ nói hơn. Chàng nhanh nhẹn đứng bật dậy nói:
-Vậy thì mình đi liền đi!
Ông Tịnh nghe mấy tiếng “dừa xiêm” cũng hăng hái xin tham dự. Ông Tịnh –một công chức chính phủ -lần di tản này đem đuợc cả gia đình vợ, hai đứa con và bà nhạc. Vào tuổi trung niên không biết nói tiếng Anh, ông ta nhiều lúc đăm chiêu nhìn những cảnh vật xa tầm mắt, xa tận chân trời, có thể đang tiếc nuối một thời vàng son đã qua, có thể đang lo nghĩ đến tương lai mịt mùng đang chờ trước mặt.
Từ những vùng đất đã được công binh Mỹ dọn dẹp, bằng phẳng cho những căn lều của dân tỵ nạn, chung quanh là rừng lá thấp, chằng chịt những gai. Bọn Dũng muốn tới rừng dừa, bắt buộc phải vượt qua cánh rừng đầy gai, để xuống sát bờ biển phía Nam hoang vu nhưng có những cây dừa xiêm thật cao, đầy trái.
Mấy tên di cư, không có cái gì trên tay, chỉ trừ cái búa đẻo mà ông Tịnh đã mượn được của mấy người dân Phước Tỉnh. Đường rừng cây cối chằng chịt, thỉnh thoảng có những cây đu đủ hoang, đầy trái xanh, có những cây ổi, trái nhỏ như trái chanh, rất nhiều hột.
Đời sống tỵ nạn lúc này, ăn không ngồi rồi, chỉ bận rộn sắp hàng đi lãnh cơm, lúc đi tìm thân nhân, hay đi tắm biển, lúc chờ tối trời đi xem ci-nê. Nếu được dịp thám hiểm như thế này thì Dũng không thể nào bỏ được. Tương lai thế nào, Dũng cũng đôi lúc nghĩ tới, nhưng lúc này Dũng phải làm cái gì để xoa dịu phần nào những nỗi nhớ nhà khủng khiếp, gắng quên đi những cô đơn của cuộc đời.
Rừng dừa đầy trái, thân cây cao ngất trên trời, Dũng tưởng mình đến sớm, nhưng dân tỵ nạn thật là hay, tin tức “dừa xiêm” mới đó mà rải rác ở đây có những toán người đã tới với cùng mục đích giống nhau.
Chiếc búa “mầu nhiệm” của ông Tịnh đốn ngã cả thân cây dừa lâu năm, có cả trăm trái.
Ông Tịnh nhắc khéo:
-Mấy ông uống nước dừa thì uống vừa vừa thôi. Coi chừng “Tào Tháo rượt” tối nay thì khổ lắm đấy!
Dũng đang thưởng thức ngon lành trái dừa thứ ba, bỗng khựng lại, sực nhớ ra cái vụ nước dừa ở Long Xuyên năm ngoái. Cái ông sĩ quan Vận Chuyển thích nước dừa quá đỗi, uống quá nhiều, uống như uống nước lúc ban ngày, đến buổi tối ông ta cứ lên giường xuống giường cả mười mấy lần để thăm cái nhà vệ sinh.