Hôm nay,  

Nhân Tình Ấm Lạnh

08/06/200400:00:00(Xem: 162343)
Người Viết: HỒ PHI
Bài số 556-1094 VB7050604

Người viết 68 tuổi, cư dân Fountain Valley, Orange County, CA. Cựu giáo sư, cựu VGS. 12.4 D.A.O., Saigon. Thuyền nhân đến Mỹ tháng 10-1976. Cựu EW 2. DPSS., Los Angeles County. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
*

Ông Nguyễn Yên, sinh trưởng ở xứ Huế, lúc trẻ chưa xong trung học, gặp thời chiến tranh, phải gia nhập quân đội, và được huấn luyện làm trung sĩ y tá. Sau bao năm theo gót chiến binh sống chết, mãn hạn trở về, cha mẹ đều qua đời, ông lưu lạc vào Quảng Nam sinh sống với nghề chích dạo và gá nghĩa với một cô thợ may vùng nầy. Nhờ có nghề, hai vợ chồng cũng dễ dàng đắp đổi qua ngày, không đến nổi quá khổ. Dù trải qua bao tang thương của đất nước, hai người vẫn lai rai sinh dưỡng được 4 cậu con trai.
Từ khi vào làm chủ Miền Nam, Các "Đỉnh Cao Trí Tuệ" đã vẽ ra những khẩu hiệu như: "Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Xã Hội Chủ Nghĩa", "Yêu xe hơn yêu con, quý xăng hơn quý máu", "Sự nghiệp Bác Hồ sống mãi trong quần chúng ta".
Không hiểu họ tiến mạnh lên ngả nào, Xã Hội Chủ Nghĩa là sao, nhưng mỗi ngày ông Yên thấy cái gì cũng khó khăn, phải mua qua tờ hộ khẩu, và Xếp Hàng Cả Ngày, với bo bo, khoai sắn sống cầm hơi. Dân tình chịu hết nỗi, nên ai có thể, đã lạy dài ảnh Bác trên bàn thờ, mà tìm mọi cách liều thân trước tầm súng AKA của C.A. Biên Phòng, để được thí mạng với đại dương sóng cả, mong trốn khỏi Thiên Đường.
Không đủ tiền lo cho cả nhà cùng đi, vợ chồng ông Yên cũng dốc sạch, chạy cho cậu con trai thứ nhì là Nguyễn Dũng, lúc đó vừa 16 tuổi, theo mấy người quen đi chui vượt biển, mong bắt một nhịp cầu cho gia đình mình được thông hơi ra ngoại quốc, kiếm chút tiếp tế về sau, và khẩn cấp nhất là tránh cho cậu nầy khỏi đi nghĩa vụ quốc tế, làm anh hùng liệt sĩ ở Cambodia.
Nhờ người tổ chức thực tâm, có mưu lược, và chuẩn bị chu đáo, chuyến đi được trót lọt sang Hồng Kông. Gặp thời Tổng Thống Jimmy Carter, hết lòng kính chúa yêu người, dùng uy tín và quyền hạn của mình kêu gọi nước Mỹ và cả thế giới cứu nguy những thuyền nhân VN lênh đênh biển cả, nên Dũng được nhận vào Mỹ một cách dễ dàng, và được nhà thờ ở Nam California bảo lãnh sắp đặt cho định cư.
Được sở Xã Hội Mỹ phát tiền chi tiêu, sau một thời gian học Anh văn, Dũng theo các bạn VN thi test, xin được vào học trường City College. Nhờ lãnh thêm tiền trợ cấp Basic Grant dễ dàng của chính phủ Mỹ và nhà trường cho làm lặt vặt có lương (work study), Dũng được thong thả có tiền ăn học liên tục hơn hai năm, và được chuyển lên Đại Học Tiểu Bang, lãnh học bỗng và vay tiền học tiếp. Bảy năm sau khi trốn khỏi Vietnam, Dũng lấy được cấp bằng B.S. về ngành Electrical Engineering.
Ra trường đúng lúc kỷ nghệ điện tử đang lên mạnh ở California, Dũng được thuê làm kỷ sư với mức lương khởi đầu khá hậu hỷ, $60,000/năm. Dũng thay xe mới, áo quần tươm tất, không khác gì một kỷ sư người Mỹ. Đúng như ta đã thường nghe: "Cộng Sản là xứ của Chính Ủy (Bí Thư), Tư Bản là xứ của Kỷ Sư".
Rồi Dũng kết hôn với một cô Việtnam, gốc Cần-Thơ cùng làm một hãng. Vợ chồng chung nhau mua một căn nhà 2 tầng mới cất, khá đẹp ở một khu trung lưu, thuộc vùng ngoại ô San Diego, trả trước 10%, phần còn lại vay ngân hàng trả góp. Mọi vật dụng, xe cộ 2 chiếc đều mới mẻ. Cuộc sống thật là hanh thông, hạnh phúc.
Thong thả, Dũng nhớ lại những ngày còn thơ ở Quảng Nam, nhớ đến cha mẹ và các anh em của chàng. Chàng thành công trong việc học việc làm, một phần vì trước kia cha chàng lúc nào cũng thúc đẩy, khuyến khích bên tai là phải cố học hành. Cha chàng muốn các con thực hiện giấc mơ trường ốc, mà đời ông đã dang dở vì chiến tranh và nghèo đói. Đã nhiều lần thấy nhà chật vật, Dũng muốn bỏ học, thoát ly gia đình, ra kiếm sống cho dễ chịu hơn, như những bọn trẻ trong làng. Nhưng cha Dũng luôn khuyên răn, an ủi và bảo: "Dù tao còn lon gạo cuối cùng tao cũng cứ ráng cho mi ăn học."
Giờ đây Dũng rất tự hào, gởi hình và thư về cho cha mẹ, cho biết chàng đã thành công như ý nguyện của cha. Dũng viết, kể rõ rằng đã có quốc tịch Mỹ, về đời sống hiện tại, gia thất, nhà cửa của chàng đều ổn định vững vàng, và bảo cả nhà lo chạy giấy tờ xin hộ chiếu xuất cảnh, để đồng thời bên nầy Dũng nộp giấy tờ bảo lãnh theo diện ODP. Trong thư chàng cũng có nhắc lời cha lúc trước về "lon gạo cuối cùng" mà chàng vẫn còn nhớ . Nay Dũng đã có đầy đủ mọi điều kiện thuận lợi để bảo lãnh cha mẹ và anh em sang Mỹ đoàn tụ.
Đọc thư xong ông bà Yên, thấy mình đã đến tuổi 60, suy yếu rồi, lại không biết tiếng Mỹ, nghĩ qua bên đó chẳng thể làm việc gì, nhưng ông vẫn muốn đi, cốt đem thêm mấy đứa con sang Mỹ cho chúng có tương lai. Thêm nữa trong thư, thấy Dũng còn nhắc lại mấy chữ "lon gạo cuối cùng", làm ông Yên rất khoái, mừng con mình chân tình nhớ ơn ông. Nên không chút do dự, ông Yên xuất hết vốn, lo dịch vụ, chạy giấy tờ đi Mỹ. Qua nhiều ải khó khăn, chi đến đồng bạc cuối cùng, lo lót cho sớm được hộ chiếu xuất cảnh, phỏng vấn và chuyến bay.
Chẳng bao lâu sau, ông bà Yên và hai con được sang đoàn tụ với vợ chồng Dũng tại San Diego, chỉ trừ người anh trên 21 tuổi, đã có gia đình riêng, nên không được phỏng vấn chấp thuận.
Không khí đại gia đình trong tháng đầu mới sang, rất vui vẻ. Nhà rộng rãi, hai người một phòng thong thả, cơm nước cũng không tốn gì thêm nhiều. Nhà lót gạch men, không chút bụi. Phòng ngủ nào cũng trải thảm đẹp, nhà có máy trung tâm điều nhiệt, bên ngoài dù nóng hay lạnh thế nào, bên trong vẫn thoáng đãng và có nhiệt độ ấm mát thoải mái. Bếp núc nấu, nướng bằng gas tự động tối tân, sạch sẽ tiện nghi, tủ lạnh to lớn chứa đầy thức ăn, dự trữ vài ba tuần chưa hết. Máy giặt, máy sấy có sẵn trong nhà, bấm nút, nửa tiếng là giặt sấy xong. Xe cộ vào tận garage sát cửa bếp.
Đường sá thì nơi đâu cũng tráng nhựa, hoặc béton ciment rộng rãi. Nhà nào cũng có sân cỏ trước, sau. và cây kiễng đều được cắt xén ngay ngắn mỹ thuật. Vợ chồng ông và hai con trai nhỏ rất mừng vui và thích thú. Ông thấy như đang lạc vào một cõi địa đàng trần thế, trái ngược với thiên đường mà Đảng đang thể hiện. Tiện nhất là trên lầu dưới nhà đều có ba bốn phòng tắm và bồn cầu, vòi nước nóng, nước lạnh, muốn tắm giờ nào cũng được, đông không lạnh, hè không nóng.
Thật là khác xa bên quê nhà, mỗi lần đi tắm, phải lội bộ ra sông Thu Bồn, xa non cây số, mùa đông gió lạnh, nước lũ đục vàng, mỗi lần tắm là một lần ớn lạnh. Mỗi lần đi tiêu, gia đình phải lội ra cánh đồng gần nhà, ngồi ven bờ ruộng, như du kích đang dàn trận, chỉa súng phục kích bắn Tây, khổ nhất là mùa mưa, ướt hết cả lưng mông. Lối đi thì bùn lầy dơ bẫn, đường làng thì ban đêm, chờ lúc vắng vẻ, người ta lại dùng làm chỗ phóng uế hôi thối, đi đẵm nghĩ lại mà ghê.

Vì đi theo diện ODP, người bảo lãnh có lợi tức cao, nên ông bà Yên và hai em Dũng không được hưởng một trợ cấp nào của chính phủ liên bang hay tiểu bang. Nhưng qua được đây ông rất mừng vui và bỡ ngỡ trước một đất nước giàu sang, bao la vĩ đại, cao ốc, nhà cửa đều khang trang, hầu hết mọi người đều có xe hơi riêng, đi lại rộn rịp, nhưng không một chút khói bụi, hàng tiêu thụ và thực phẩm vạn thứ tốt đẹp bày bán đầy trong thương xá và siêu thị. Một xã hội tư bản đang sống mạnh, ăn nên làm ra, chứ không phải đang rẩy chết như kinh điển Mác Lê mà "đỉnh Cao" đã rao giảng.

Ông Yên gốc Huế, từ nhỏ đã quen với tập quán và ý thức cổ truyền, nên đầu óc cũng còn mang lắm thành kiến theo lễ nghi Khổng Giáo Đông Phương, nhà lính tính quan, nên nhiều tự ái, khí khái quá đáng, chuyện nhỏ có thể lờ qua, nhưng cũng trở thành vấn đề thắc mắc lớn.
Cũng như nhiều người Huế rất ăn cay, ông thường cắn nửa trái ớt hiểm, nhai kèm theo miếng cơm. Ớt nầy ở Mỹ cũng chẳng đắt đỏ gì, một dollar cũng có thể mua cả bát lớn, ăn cả tuần chưa hết. Sau mỗi bữa ăn, ông thường bỏ lại trên bàn dăm ba trái ớt cắn nửa chừng. Cô dâu thấy thế nói: "Tía ăn kiểu nầy, nhà mình phải mua vài mẫu đất trồng ớt mới đũ cho tía ăn". Ông Yên nghe, rất xốn xang khó chịu, và cho là con dâu vô lễ, ông bắt đầu ốt dột.
Đám ông bà Yên sang ở được hơn tháng, hóa đơn tiền nước gởi đến thấy tăng gấp đôi. Vì trước đó nhà chỉ có hai vợ chồng trẻ và 2 con nhỏ. Nay nhà thêm 2 ông bà già và 2 cậu trai, tắm giặt nhiều hơn, tăng gấp đôi là phải. Cô dâu thấy nóng mặt và đưa ra phương pháp tiết kiệm nước, bằng cách bảo đám ông Yên rằng trước khi đi ngủ, hãy cùng rủ nhau đi tiểu một lần rồi mới giật nước. Ông Yên càng bực mình thêm và cho là con dâu quá ti tiện nhỏ mọn, nên ông càng ấm ức, và trở nên mất vui.
Lúc còn ở Việt nam, từ sau 1985, Việt Cộng vẫn học theo Trung Cộng bắt đầu dần cởi trói. Bà Yên phụ với người con trai lớn có thể mở làm nghề may, còn ông lai rai chích dạo chui, cũng có thở. Ở VN, ông là người hữu dụng, ông đóng vai trò gần như một bác sĩ gia đình trong xóm làng, cung ứng y vụ đầu tiên. Ai sốt rét thì ông chích quinine, nivaquine, ai ho lâu ngày, ông chích steptomycine, ai mệt mõi thì ông chích B-Com, B12, Vit C. Ai bị nhiểm trùng thì ông chích trụ sinh, ai mệt khó thở thì ông chích huile de camphre, ai ho cảm thì ông chích Eucalyptol, hoặc bịnh nhân mang sẵn thuốc theo toa Bác sĩ đến cho ông chích. Khi bịnh không lành mới phải đi bác sĩ, bịnh viện. Nhờ luôn có bệnh nhân, ông có tiền lai rai, được bà con làng xóm nể mến. Chiều chiều ông cũng có thể ra ngồi ở quán cóc, nhậu vài ly beer với bạn già, cười hề hà mùi với cô chiêu đãi, lãng quên thế sự tối tăm.
Được con trai bảo lãnh sang Mỹ, qua một thời gian ngắn, ông Yên thấy mình không còn thích hợp vào việc gì ở xứ nầy, suốt ngày trong nhà, luôn đóng cửa, tù túng không biết đi đâu, không biết lái xe, không có bạn bè tâm sự, cũng chẳng biết làm nghề gì để phụ tiền ăn ở với con và dâu. Ông đi học tiếng Anh cũng chữ được, chữ quên. Ông đâm ra chán nản và buồn bã, vì thấy mình xó ró, khó hòa hợp, lại thêm nghĩ là con dâu là người chi li keo kiệt, làm sao chung sống được, nên ông lại muốn quay về Việtnam, với nhà cửa đã sẵn của ông do vợ chồng cậu con lớn vẫn đang ở, tiếp tục nếp cũ, để có thể diện hơn.


Ông lại gởi thư cho cậu con ở VN lo thủ tục cho ông trở về. Dưới quyền các đồng chí quan lại, thủ tục ra đi đã khó, viêc trở về vĩnh viễn cũng không phải là dễ, cũng đòi hỏi nhiều thủ tục rườm rà. Đối với các ngài, không phải ai muốn đi là đi, muốn về là về đâu. Thật lắm nhiêu khê thủ tục "đầu tiên".
Trong khi chờ đợi sự dàn xếp của cậu con bên nhà, ông Yên buồn lòng tìm đến thăm Nha sĩ Phùng, cháu gọi ông bằng cậu, đang làm ăn khá giả để cầu kiến. Ông đem tâm sự ra giải bày, ông trách con ông: "Tên Dũng mà thứ "hữu dũng vô mưu" không biết điều xử thế, hắn có học mà râu quặp như rựa, việc chi cũng để cho con vợ làm chủ, sai khiến tất cả."
Sang đây từ 1975, Nha sĩ Phùng là người ở giữa hai thế hệ trẻ, già, đã trưởng thành bên Vietnam và sống lâu ở Mỹ, thông hiểu được tình trạng phân cách của 2 thế hệ, nên tận tình giải thích cho ông rằng:
"Xứ nầy theo chủ nghĩa cá nhân riêng tư, chứ không theo truyền thống đại gia đình như bên ta. Lớp già bên ta và lớp trẻ lớn lên bên nầy suy nghĩ khác nhau. Vả lại trong trường học ở Mỹ, người ta chỉ dạy tính toán, khoa học, kỷ thuật và nghề nghiệp chuyên môn, chứ không dạy lễ nghi, luân lý đạo đức, cũng như lối cư xử, tương quan giữa người với người như thế nào. Ai lo phần nấy, đặt giá trị đồng dollar lên hàng đầu, cha con anh em gì cũng bất kể, vì quyền lợi thực tế hiện tại hơn vì tình nghĩa trước sau."
"Những gia đình ngoan đạo chân chính, từ nhỏ tin tưởng vào Chúa, Phật, hay Khổng, thì lấy Thánh Kinh, công bằng bác ái, lời Phật dạy từ bi, hỷ xã, bố thí, vị tha, hiếu kính cha mẹ, nghiệp chướng luân hồi, hay tư tưởng Nho giáo về cương thường, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín làm tiêu chuẩn, lấy đó làm kim chỉ Nam hướng dẫn, để xử sự, đối vật, đãi nhân mà hành động và phẩm định tư cách và giá trị mỗi người."
"Nhưng đám tuổi trẻ tị nạn sang đây, ý thức tôn giáo và đạo đức gia đình lỏng lẻo, nên mọi xử sự của chúng thì loạn chiêu, không theo nguyên tắc đạo lý Đông Tây nào cả. Nguyên tắc đạo lý Phật, Nho, Á đông thì chúng chưa biết, không biết, hoặc có biết cũng bỏ, chẳng áp dụng. Còn nền văn minh tinh thần nhân đạo của Cơ đốc Tây phương thì chúng cũng chưa thấm nhuần. Ý thức về liên hệ đại gia đình và phê phán về giá trị từ môi trường xã hội chung quanh không có. Nếu bên mình bọn trẻ cư xử sai quấy thì bị xóm làng, bà con khinh khi chê trách, nên chúng không dám, chứ bên nầy có ai hơi đâu mà khen chê. Do vậy giới trẻ cứ tùy tiện mà xử sự, tiền hậu bất nhất, theo cảm quan vui buồn, và không theo một nguyên tắc nào cả, chẳng giống Mỹ, chẳng giống Việt."
Nha sĩ Phùng lại tiếp: "Còn thế hệ già thì cố chấp, trong lòng còn nặng mang truyền thống cũ, nên rất khó mà hòa hợp. Đúng như Albert Einstein đã nói: Phá vỡ nhân nguyên tử còn dễ hơn phá vỡ một thành kiến. Cháu biết những điều cậu vẫn nghĩ về bổn phận con, dâu trong gia đình xưa nay sẽ không thể nào có được ở đây. Thành ra cậu mợ buồn là phải. Chứ như ông Nam, bạn cháu ở San Marcos gần đây, có mấy đứa con gái được ông đưa sang từ lúc sơ sinh, nay đứa thì master làm ký giả TV Mỹ, đứa thì làm Luật sư cho Mỹ, lấy chồng Bác sĩ, Luật sư. Lần lượt làm đám cưới sang trọng, thấy ông ấy không bằng ai, chúng bắt chước nhau đều không mời ông và không muốn cho ông tham dự. Nhưng mẹ và anh chị chúng cũng không khuyên trách, sui gia cũng không hề đến nhà ông thăm xã giao một lần cho biết, hoặc hỏi thăm sao ông không có mặt. Biết lẽ đời phù thịnh, chứ ai phù suy, không hề quan tâm, ông Nam đi chỗ khác chơi, vẫn vui vẻ chứ có sao đâu."
Ngưng một lát, Phùng lại tiếp:
"Tụi Dũng mới xử như thế, mà cậu mợ đã phiền, thì cậu bịnh chết đi mất. Thằng Dũng như vậy vẫn còn tốt nhiều. Chứ cháu biết chuyện một góa phụ nọ ở VN, chỉ có một con trai, ráng chạy cho hắn sang đây, rồi hắn lặn luôn, không hề thư từ. Mẹ hắn nhớ con mỏi mòn trông tin hắn, viết thư cho bạn bè hắn để tìm, hắn lại bảo bạn hắn viết thư cho mẹ hắn nói là hắn đã chết rồi."
Thuyết ông bà Yên một hơi dông dài, Nha sĩ Phùng kết thúc: "Thực tế thường phủ phàng, cậu mợ không giàu có, không địa vị, quyền thế, danh vọng gì ở đây, lại già yếu, lỗi thời, lỗi chỗ, thì phải chịu vậy thôi. Cậu mợ không thể nào chung sống với vợ chồng Dũng thêm nữa được, cậu mợ phải dọn ra ở riêng, càng sớm càng tốt để khỏi va chạm và sứt mẻ thêm."
Sau đó Nha sĩ Phùng đưa tặng ông bà Yên 1,200 dollars, bảo về dùng thuê apartment một phòng ngủ cho 4 người tạm sống, và khuyên ông bà Yên tìm mọi cách tự túc, tự lập.
Nhờ tiền nầy, ông bà Yên dọn vào apartment. Ông Yên giúp vợ nhận babysit vài ba đứa bé VN cùng khu. Hôm nào khỏe, ông mang bị đi lượm lon nhôm, mỗi khi một ít, góp lại mỗi tháng cũng bán được mấy chục dollars, phụ thêm. Hai cậu con trai nhỏ sắp đặt thì giờ, vừa đi học, vừa làm bồi bưng phở cho Việtnam ở El Cajon. Ban đầu thì Dũng hứa giúp mỗi tháng 200 dollars để phụ trả tiền thuê apartment, nhưng rốt cục chẳng cho đồng nào, rồi sau lại nói ở Mỹ phần ai nấy lo. Và từ đó vợ chồng Dũng cố tránh đám ông bà Yên. Mối liên hệ đôi bên trở nên xa lạ lạnh nhạt, không còn tới lui thăm viếng, hỏi han gì nhau nữa, coi như quên hẳn nhau.
Ban đầu, ông bà Yên lo lắng, nóng ruột chờ thủ tục dàn xếp hồi hương và lo kiếm tiền vé máy bay cho xong. Nhưng với thời gian, ông bà Yên quen dần với nếp sống mới và hòa nhập với xã hội, như những người Mỹ nghèo. Ông bà còn phải yểm trợ cho hai cậu con nhỏ tiếp tục học, nên dần lãng quên chuyện tính trở về VN.
Một hôm, hai cậu con ông bà Yên ra khu siêu thị mua thực phẩm gặp vợ Dũng đang dẫn hai con nhỏ cùng đi chợ. Vừa trông thấy 2 chú, hai đứa cháu chạy đến ôm mừng rỡ, nhưng đã bị mẹ gọi giật lại và dẫn đi ngay ra khỏi siêu thị.
Hôm nọ gia đình người trưởng tộc của ông Yên, cũng tỵ nạn định cư tại San Diego, có tổ chức bữa giổ ông cố tam đại trong giòng họ, có mời bà con bạn bè đông đảo, có cả vợ chồng Dũng và ông bà Yên riêng rẽ. Cả bốn người đều có đến dự, nhưng tất cả đều tỉnh bơ, trà trộn trong đám khách già trẻ, coi như xa lạ, chẳng ai chào hỏi ai cả. Tệ hơn cả người lạ, vì khi gặp nhau ở một nơi như vậy, người lạ vẫn chào, thăm hỏi nhau lịch sự:
"Cố hương hà chính vô phương thuyết,
Viễn xứ thâm tình vạn nẽo xa."
Thoáng 6 năm nữa lại trôi qua, hai cậu con trai nhỏ ông bà Yên đều đã học xong đại học 4 năm và đã tìm được việc làm tại các cơ xưởng kỹ nghệ trong vùng và cũng đã dọn ra ở riêng.
Ông bà Yên nạp đơn xin vào quốc tịch. Được thẩm vấn sơ qua, ông bà trả lời ú ớ, câu trúng, câu sai, nhưng cũng đã được ưu ái chấm đậu làm công dân Mỹ. Lấy xong chứng chỉ quốc tịch, ông bà yên cũng ráng đi bỏ phiếu bầu từ hội đồng thành phố, quốc hội, thống đốc và tổng thống. Ông bà còn ra Bưu Điện thành phố điền một lá đơn, gởi kèm vói 2 tấm ảnh và đóng lệ phí 60 dollars, vài ba tuần sau, nhận được sổ thông hành (passport) thời hạn hiệu lực 10 năm, có thể dùng đi hầu khắp các nước trên thế giới, bất cứ lúc nào, đều khỏi cần chiếu khán (visa) nhập cảnh của nước đó chỉ trừ Vietnam và vài ba nước Cộng Sản còn sót lại.
Nay cả hai ông bà đều đã qua tuổi 65, nên đã được hưởng mọi quyền lợi và trợ cấp in hệt như một cặp vợ chồng Mỹ già nghèo chính cống sinh trưởng ở xứ sở nầy:
- Được bảo hiểm sức khỏe (Medicare, Medi-Cal): Khi ông bà bịnh nhẹ, nặng, đi bác sĩ, bệnh viện, chính phủ sẽ thanh toán mọi y phí, thuốc men. Nếu không đi đứng được, chính phủ sẽ cho xe lăn và trả tiền thuê người đến chăm sóc.
- Được trợ cấp tài chánh để tiêu pha cho mọi sinh hoạt hằng ngày. Mỗi tháng chính phủ chuyển vào trương mục của ông bà đúng US$1399. Ịầu tháng ra nhà bank, đút thẻ ATM rút tiền nầy ra xài.
-Được trợ cấp gia cư: Ông bà đã mướn nhà apartment 2 phòng ngủ, dù giá thị trường cho mướn cao đến 1200 dollars, nhưng ông bà Yên cũng chỉ phải trả mất 1/3 số tiền được trợ cấp nói trên. Số sai biệt chính phủ sẽ trực tiếp trả cho chủ nhà.
Kể gọn bằng bài thơ sau đây:

Cảnh già ở Mỹ

Sáu mươi lăm tuổi xứ Cờ Hoa,
Còn những ba lăm đẹp cảnh già"
Con cháu đường riêng, ngày lễnh lãng,
Của tiền quan tính, khỏi lo xa,
Xe hơi mới cũ, tha hồ lái, (dù không lái)
Xứ lạ xa gần, mặc sức qua.
Lận đận bên trời thôi vĩnh viễn,
Mừng nhau vàng tuổi hết bôn ba. (HP.)

Ngoài ra, vì lợi tức thấp, các cụ già còn được các hãng xe bus Mỹ, quán ăn Mỹ, một số cửa hàng và những nơi giải trí công cộng, giảm giá cho, có thể từ 10 đến 30%, và county còn cho mỗi tháng một thùng thực phẩm đóng hộp. Nghe đâu bác sĩ còn viết toa cho lãnh không sữa Ensures và cả thuốc trị bịnh bất lực nữa để được giỏi như hồi trai trẻ. Ngoài ra còn được hưởng các tiện nghi ưu ái, do nhà thầu cung cấp, tiền chính phủ trả, như dịch vụ Day Care cho người già, chăm sóc, tập luyện dưởng sinh, cơm trưa, đưa đón, chở du ngoạn đó đây. Lúc yếu cùng lắm thì vào Nursing Home chờ ngày về với tiên tổ.
Khi dành dụm được ít nhiều, ông bà lại gởi giúp con cháu và bà con bên quê nhà. Chẳng còn bận rộn kiếm sống nữa, vui cảnh thanh nhàn trong mọi điều kiện ổn định. Đói no, bịnh hoạn, tiền bạc có chính phủ lo, ông bà Yên sống với nhau như cặp vợ chồng son, mới cưới, trong căn apartment tiện nghi, một tổ ấm riêng tư, mà từ khi lấy nhau hai người chưa bao giờ có. Bất cứ giờ giấc nào, cũng có thề tha hồ ngồi trà rượu, hay bày cờ tướng ra đánh, như thơ bà Hồ Xuân Hương đã mô tả, nhưng tiếc thay tạo hóa lại đố toàn, không gì trọn vẹn, vì tướng mã lại suy tàn, xe pháo thêm rời rã, ngọn cờ ngơ ngác, trống canh trễ tràng.
Mấy người bạn già biết chuyện, hỏi ông Yên còn muốn trở về Viêtnam nữa không" Ông thản nhiên đáp: "Chừ ở đây tui sượng quá, về Việtnam chi mô cho phiền rứa. Ở đây con nó bỏ, thì có chính phủ lo, khỏi phải như các cụ già Nhật phải đi 'tu tiên' phơi xương núi Phú Sĩ băng tuyết, hay các cụ VN nghèo, bệnh bơ vơ chết đường, chết chợ ở quê nhà. Nhờ chính phủ Mỹ, tui đâu có cần chi mô tụi vô tình, bất nghĩa đó."

HOPHI

Ý kiến bạn đọc
14/01/202006:21:22
Khách
neu con ong khong bao lanh thi lam sao gia dinh ong qua duoc? Thoi nen lam lanh voi gia dinh cua cau Dung di.Life is too short.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 833,301,153
Tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ từ 2006 với bút hiệu Huyền Thoại. Một số bài viết khác của cô được ký tên Thịnh Hương. Nay hai bút hiệu hợp nhất, thành một tác giả thân quen đã hơn 15 năm sinh hoạt với Việt Báo viết về nước Mỹ. Tác giả là cư dân miền Bắc California vừa thông báo đã “trả thẻ, về hưu.” Hy vọng viết về nước Mỹ năm thứ 21 sẽ thêm bài viết mới.
Tác giả dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu tiên, từng nhận Giải Danh Dự VVNM 2001 và giải chung kết VVNM 2004. Khởi viết cùng lúc với giải thưởng Việt Báo, tác giả đã xuất bản cuốn sách đầu tiên, "Cạnh Đền" và mới nhất là "Bước Chân Định Mệnh". Hai cuốn sách gộp chung gần 1.000 trang truyện ký về cuộc đời của chính tác giả.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ 2019 khi gần 90 tuổi. Bà tên thật là Nguyễn thị Ngọc Hạnh. Trước 1975, là giáo sư đệ nhị cấp tại Trung học Nguyễn Trãi. Cùng gia đình tới Mỹ từ 1979, hiện là cư dân hưu trí tại miền Đông. Bài viết thứ bảy của bà kể về chuyện họp mặt trường cũ trên du thuyền.
Tác giả sinh năm 1959 tại Đà Nẵng đến Mỹ năm 1994 diện HO cùng ba và các em, định cư tại tiểu bang Georgia. Hiện là nhân viên công ty in Scientific Games tại Atlanta, tiểu bang Georgia. Bà đã góp bài từ 2015, kể chuyện về người bố Hát Ô và nhận giải Viết Về Nước Mỹ. Bài viết mới của bà kể về người bảo lãnh của gia đình, một cựu sĩ quan VNCH, cựu tù cải tạo, vừa ra đi tại Atlanta.
Tác giả tên thật Trịnh Thị Đông, hiện là cư dân Arkansas. Bà sinh năm 1951, nguyên quán Bình Dương. Nghề nghiệp: Giáo viên anh ngữ cấp 2. Tới Mỹ vào tháng 8, 1985, bà dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7, 2016 và đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2017. Sang năm 2018, Dong Trinh có thêm giải Vinh Danh Tác Giả, thường được gọi đùa là giải Á hậu. Sau đây, thêm một bài viết mới của tác giả.
Tác giả là một cựu tù cải tạo vượt ngục và là người lái tầu vượt biển tới Philippine năm 1989. Định cư tại Mỹ từ 1990, ông hiện là cư dân Vail, Arizona, làm việc theo một hợp đồng dân sự với quân đội Mỹ, từng tình nguyện tới chiến trường Trung Đông và Châu Phi. Sau giải Danh Dự VVNM 2018, sang năm 2019, ông góp thêm 7 bài viết mới. Hai bài tiêu biểu: "Đời Phi Công...Không Người Lái," và bài mới nhất, "Philippinnes, Ngày Trở Lại": người thuyền nhân trại Pallawan 30 năm trước, nay là một công dân Mỹ trở lại giúp mảnh đất ơn nghĩa năm xưa chống khủng bố. Vẫn chuyện Philippinnes, đây là bài mới nhất. Bài đăng 2 kỳ. Tiếp theo và hết.
Tác giả là một cựu tù cải tạo vượt ngục và là người lái tầu vượt biển tới Philippine năm 1989. Định cư tại Mỹ từ 1990, ông hiện là cư dân Vail, Arizona, làm việc theo một hợp đồng dân sự với quân đội Mỹ, từng tình nguyện tới chiến trường Trung Đông và Châu Phi. Sau giải Danh Dự VVNM 2018, sang năm 2019, ông góp thêm 7 bài viết mới. Hai bài tiêu biểu: "Đời Phi Công...Không Người Lái," và bài mới nhất, "Philippinnes, Ngày Trở Lại": người thuyền nhân trại Pallawan 30 năm trước, nay là một công dân Mỹ trở lại giúp mảnh đất ơn nghĩa năm xưa chống khủng bố. Vẫn chuyện Philippinnes, đây là bài mới nhất.
Tác giả dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng Sáu 2017, cô đã nhận giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ năm thứ XIX và hiện là cư dân Los Angeles, công việc: làm tax accountant. Bước sang năm thứ 20 của giải thưởng, tác giả tiếp tục cho thấy một sức viết mạnh mẽ khác thường. Sau đây, thêm một bài viết mới.
Tác giả là nhà báo quen biết trong nhóm chủ biên một số tuần báo, tạp chí tại Dallas. Ông dự Viết Về Nước Mỹ từ 2006, đã nhận Giải Danh Dự, thêm Giải Á Khôi, Vinh Danh Tác Giả VVNM 2016, và chính thức nhận giải Chung Kết Tác Giả Tác Phẩm 2018. Sau đây thêm một bài viết mới.
Chào mừng tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ. Bà cho biết tên thật là Lâm Túy Mĩ (Milam Túy Hoa). Trước 1975, làm việc cho ngân hàng Việt Nam Thương Tín chi nhánh Nguyễn Tri Phương, Quận 5, Saigòn. Năm 1976, sau đợt đổi tiền, bị sa thải vì có chồng là "ngụy quyền". Vượt biển, và định cư ở Hoa Kỳ từ hè năm 1979. Từng là nhân viên thành phố Long Beach trên 28 năm. Sau hưu trí, hiện là cư dân Santa Ana. Mong tác giả tiếp tục viết.