Tác giả tên thật Phạm Ngọc Hiệp, 55 tuổi, cựu SVSQ khóa 3 Đại Học CTCT Đà Lạt. Đến Mỹ năm 1996, diện HO. Hiện cư ngụ tại Philadelphia, PA. Nghề nghiệp : Công nhân. Đã góp bài viết về nước Mỹ cho năm đầu tiên: Chuyện Lan Man Về Job Mỹ (VVNM 2000). Sang năm thứ tư, ông góp bài thứ hai và viết “Quê nhà đã xa nửa vòng trái đất. Những vui, những buồn chỉ còn là lãng đãng nhớ thương. Nhớ từng nơi, thương từng người, dù xấu, dù tốt.” Sau đây là những hồi tưởng của ông.
*
Quê Hiệp ở Cù Lao, Biên Hòa. Quê vợ hắn ở Long Vĩnh, Vĩnh Bình, bây giờ gọi là Trà Vinh. Thật tình Hiệp không biết nhiều về quê hương Biên Hòa của mình vì tuổi nhỏ của hắn được lang thang theo bước chân công vụ của người cha, đến khi vừa đủ lớn trở về thì lại quay quắt với việc học hành ở Sài Gòn, và cuối cùng, lúc vừa biết thế nào là quê nhà thì cũng vừa tình nguyện đi làm lính.
Ra trường được 2 năm, nước mất, Hiệp vào tù, như mọi người. Sáu năm sau, được thả, gia đình cha mẹ đã bị đưa đi kinh tế mới Xuyên Mộc, Đồng Nai, Hiệp đành về ở quê vợ.
Hắn là con trai trưởng trong nhà, gọi theo miền nam là thứ hai. Như vậy rõ ràng hắn phải là Hai Hiệp nhưng không hiểu tại sao già trẻ lớn bé nơi quê vợ đều gọi hắn là Năm! Dượng Năm, Chú Năm, Anh Năm... A, vợ hắn có cái tên cúng cơm rất dễ chịu là Huỳnh Thị Bé Năm, chắc họ tưởng cô nàng thứ năm nên gọi theo thứ của vợ " Mà cũng không được, hết cái làng nhỏ xíu này, đầu trên xóm dưới ai cũng có dây mơ rễ má với nhau, không bà con gần thì cũng họ hàng xa (dĩ nhiên cũng có một mớ bà con đầu ông trời), chẳng lẽ người ta không biết vợ hắn là đứa con cu ky của ông bà Năm Cầm " A, hay là chơi theo kiểu cá kèo một lứa đây " Ông bà già vợ thứ Năm, con vợ tên là Năm vậy thì dện cho thằng rể một cái thứ Năm cho êm " Để rồi tự nhiên hắn trở thành Năm Hiệp một cách vui vẻ, thỏa thuận. Bằng chứng là không bao giờ nghe ai đó kêu Dượng Năm, Anh Năm...mà hắn lại tưởng họ đang gọi một tay nào đó không phải là mình.
Quê vợ Năm Hiệp nghèo lắm và tăm tối lắm. Kinh rạch chằng chịt khắp nơi, rừng cây mắm, cây giá, chà là, dừa nước chập chùng. Nhà cửa sơ sài rải rác bám theo con lộ đất duy nhất chạy dài xuống mé biển âm u. Đó là gân đất nổi, gọi là giồng, dài và mỏng như một ngón tay ốm. Xa con lộ hơn 2 công đất là đất thấp, nước mặn xâm xấp với đủ các loại cây hoang. Muỗi mòng xụp tối đã bắt đầu xôn xao dậy ổ. Đầu làng cuối xóm hun khói đuổi muỗi mịt mù. Có nhà hun bằng con cúi rơm. Có nhà hun bằng phân bò, mùi khói hăng hăng nhưng sao thân thiết lạ.
Túng nghề kiếm sống, ngoài nghề làm mướn bá nạp, vợ chồng Năm Hiệp mở tiệm bán quán. Nói nghe ghê gớm, thật ra cũng vẫn cái chòi lá đang ở, rọc cửa sổ dài thêm ra, kê thêm sát cửa sổ đó một miếng ván cũ đặt trên bốn nống cây chà là chôn dưới đất. Và chỉ vớ vẫn không hơn mươi món hàng. Nếu cần kể ra chi tiết thì đây là những món hàng ấy: mía chặt khúc, đường cát, bột ngọt, dầu lửa, hành, tỏi, nước tương, bánh, kẹo, thuốc hút, rượu đế. Hết!
Đường, bột ngọt, bánh thì bỏ vào bọc mủ, hàn miệng, treo lỏng nhỏng phía trong cửa sổ mà biết bao lần những con mắt trẻ nhỏ đứng ngoài thèm khát nhìn vào. Để cho ai đó chợt nhớ thầm về một thời thơ ấu no đủ, cưng chìu của mình, và đôi lần ngăn không được nỗi xót xa, Năm Hiệp đã lén vợ cho mỗi đứa một cái bánh. Những hôm đó, hắn tự an ủi rằng đi buôn bữa lỗ, bữa lời thì cứ coi như là bữa lỗ, có sao đâu! Mà thật ra lời lóm gì với không hơn mươi món hàng như thế. Cứ chịu khó ngồi tính nhẩm, tối đa một món lời 1 đồng thì sẽ lời được bao nhiêu" Khách hàng quanh đi quẩn lại cũng chừng đó khuôn mặt xóm chòm.
Năm khi mười thì mới có một tay đi ngang ghé mua vài điếu thuốc lẻ. Thấy con Ba Liêm thấp thoáng đầu ruộng, ở đây mẹ con đã sẳn sàng dầu lửa, chai đong. Thấy con Bảy Nó rề rề đi tới thì chắc mẻm là mua mỡ nước và vài viên kẹo công lao. Có lần mẹ nó chạy tới mắng vốn - bán gì mà mắc quá vậy, 200 đồng mỡ chỉ có chút xíu đây sao" Hỏi tới hỏi lui, hóa ra con nhỏ vừa cầm về vừa uống. Còn chút xíu đó là may rồi! Còn khách rượu thì cũng lòng vòng mấy ông anh em bà con, xa gần có đủ. Quán vốn nhỏ nhoi mà mấy cha thì quen tay ghi sổ, trả chậm mua nhanh. Thỉnh thoảng xỉn quá nên quên, nói quán ăn gian ghi thêm ghi bớt, rồi cãi lộn mà trừ!
Chán quá, Năm Hiệp nói, thôi dẹp mẹ nó đi cho khỏe. Bé Năm thì kiên nhẫn có thừa. Có lẽ sáu năm nuôi chồng ở tù Cộng Sản đã dạy cho cô nữ sinh thơ ngây ngày nào trở thành một người đàn bà quán xuyến và cam chịu mọi điều. Nàng nói:
-Ráng bán bậy bạ để khỏi mua bột ngọt, dầu lửa vậy mà! Anh chịu khó đi làm mướn như mọi ngày còn quán để cho mẹ con em, từ từ rồi tính.
Tôi nghĩ như vậy cũng ổn rồi. Bán mà như không bán thì cũng được cái vui nhà vui cửa. Nhất là cho bé út Tường Vi, đứa con cầu con khẩn, mới biết bò, thỉnh thoảng vớ được nguyên cái bánh in nhai nhả lung tung!
Ở ấp kế bên có nhà chú Chín Dứt. Người con thứ hai học ở Cần Thơ, không biết nghiên cứu ở đâu trở về khai trương nghề làm bia chai. Bia không tên, không nhản, chỉ là một chất nước màu vàng đựng trong vỏ bia thiệt mua từ những chành ve chai ở trên thị xã. Uống vào không đâu ra đâu nhưng nhậu một hồi cũng có tay quay mòng, quậy dữ. Mọi người gọi là bia khùng. Bia được chế biến ẩu tả hay bia làm bợm nhậu khùng điên, nghĩa nào cũng được. Nhờ những mống ham vui, thích lạ nên bia khùng cũng phổ biến một thời. Quán nghèo Năm Hiệp từ đó có thêm món mới. Và cũng từ đó, khách rượu ghi chịu nhiều hơn, cãi lộn trừ nợ nhiều hơn. Rồi sập tiệm! Rất êm đềm, không thương tiếc gì cái ngử đó.
Dòng họ, bà con ở kế kế nhau. Sát một bên hướng mặt trời mọc là nhà Mợ Chín. Cậu Chín đã hy sinh lúc làm Xã Trưởng thời Việt Nam Cộng Hòa. Ngày đó Hiệp là tên Thiếu Úy mới ra trường, cậu Chín chưa là cậu vợ. Bởi không biết uống, Hiệp ngây thơ dứt khoát từ chối ly rượu mời nên ông Xã Trưởng hiểu lầm anh chàng này phách lối, giận không thèm nhìn mặt một thời gian. Đến khi hai bên vừa thông cảm nhau thì ông mất. Và không ngờ, sau này ông trở thành cậu vợ dù đã không còn.
Mợ Chín ở với đám con. Lần lần, đám con lấy vợ, theo chồng tứ tán khắp nơi. Cuối cùng, Mợ ở với thằng con út, Út Làng. Mợ khóc lên khóc xuống vì ông quý tử này. Làm biếng như tinh, ăn nhậu quá siêng. Ngày Út Làng mới lớn, Mợ cho lên Tây Ninh học nghề thợ mộc với người anh rễ. Được gần một tháng, Út trồi đầu về, ốm nhom. Mợ xót xa thương thằng con học hành cưa, bào, đục, đẻo cực khổ nơi xứ lạ quê người. Hỏi làm được gì rồi " Út nói tỉnh bơ, mắc nhậu xuyên suốt nên làm gì được! Đến bây giờ, Út cũng không khá hơn. Chỉ có cái bụng thì càng ngày càng lớn và da dẻ thì càng ngày càng xanh mét ra. Chắc Út đang tiếc không học cách đóng quan tài cho đẹp để hy vọng bỏ công ăn học chuyến này.
Cách nhà Mợ Chín một đỗi là nhà Ngọc Anh. Anh chàng này thời Việt Nam Cộng Hòa đi lính quân dịch. Bây giờ đánh bạc tối ngày. Gặp những hôm sòng bài bị động ổ, anh chàng ở không, qua nhà Năm Hiệp uống trà, nói chuyện trời trăng. Hỏi, sao không ráng cho sắp nhỏ đi học" Anh chàng đáp :
-Tui cũng học vậy! Lớp 12 trường Bồ Đề, Trà Vinh, chớ bỏ sao! Nhưng học rồi, được cái gì" Hồi xưa, sĩ quan hay lính lác gì cũng đưa lưng trâu cho mấy thằng tướng, tá làm giàu, mình bỏ xác đầy đồng, què chân cụt tay, có ai thương không" Đến khi thua trận, bọn lớn đầu ôm tiền dông trước thì nói chi đến đám ăn theo. Tui nhờ đem cái bằng vất đi, trốn lính rồi bị bắt quân dịch nên không bị ở tù. Bây giờ, có học cũng không qua nỗi cái cửa lý lịch, bè đảng. Nghĩ đời thấy chán, học để làm gì. Bài vở, thầy cô, bận bịu suốt mười mấy năm trời, sao không nhởn nhơ như cỏ cây, đách thèm học gì hết, có ai chết vì ngu đâu"
PHẠM CHINH ĐÔNG