Hôm nay,  

Tình Đời

30/10/200200:00:00(Xem: 116517)
Người viết: LAN ANH

Bài tham dự số: 3026-674-vb31029

Tác giả đang cư ngụ ở Melbourne, Úc châu, cho biết Nam nay bà 31 tuổi,
computer programmer. Bài Viết Về Nước Mỹ đầu tiên của bà kể chuyện du lịch lần đầu qua Mỹ từ 1994. Truyện ngắn sau đây là bài viết thứ hai của Lan Anh.

Ông Khương đi theo diện đoàn tụ gia đình do người con gái lớn đứng ra bảo lảnh. Ngày rời Việt Nam, ông mừng không thể nào tả xiết. Bà Khương đã mất từ lâu, hai đứa con thì đang sống ở nước ngoài, một mình ông vào ra thui thủi một mình. Hàng ngày ông cầu nguyện Trời Phật để ông được mau gặp lại hai đứa con yêu bằng xương bằng thịt, chứ không phải qua hình ảnh hay điện thoại.

Những ngày đầu tiên vui mừng hạnh ngộ rồi cũng qua mau. Ông Khương ở chung nhà với cô con gái, còn cậu con trai thì lâu lâu gọi điện thoại hỏi thăm ông. Đối với ông, bao nhiêu đó cũng đủ, cũng quá hạnh phúc so với những ngày vò võ một mình ở bên quê nhà.

Nhưng người đời thường nói “Chén dĩa để trong khay lâu ngày thì nó cũng khua”. Cái nếp sống giữa một ông già sống gần một đời ở VietNam với nếp sống của một cô gái trẻ ở nưóc ngoài đã lâu không thể nào không có sự khác biệt. Mới đầu, hai ba con ông Khương còn cố gắng, mỗi người nhường nhịn một chút, người này gắng sống gượng ép để làm vui lòng người kia. Nhưng sự gượng ép không kéo dài được bao lâu thì xảy ra một chuyện làm ông Khương không thể nào sống chung với cô con gái được nữa.

Số là ông Khương là người miền Nam rặt, ông rất là thích món bún mắm mà có ngườI gọi là bún nước lèo. Món bún mắm này nghe nói nguyên thủy từ Miên. Ngưòi Miên nấu bún này dùng mắm bù hóc, mùi rất nồng. Sau khi món này di nhập qua VietNam, người Việt mình chắc tại không thể chịu nổi mùi mắm bù hóc nên đổi sang nấu bằng mắm cá sặc, mắm cá lóc hay mắm cá linh.

Trời ơi, mỗi lần nghĩ đến tô bún mắm là ông Khương thèm nhõ dãi. Thôi thì cọng bún to trắng muốt, vài cọng hẹ xanh xanh, rồi nào thì là những miếng cá trắng phau, những con tôm đỏ ửng, ở vài nơi còn cho thêm bì và thịt quay vô tô bún nữa. Cái đặc biệt của bún mắm là ở nước lèo. Nước lèo nấu phải làm sao cho thật đậm đà mùi mắm nhưng không được quá nồng, và phải thơm lừng mùi xả và ngải bún. Rau ăn với bún mắm không nhiều, thường trong dĩa rau chỉ thấy giá sống, hẹ sống và húng nhũi, có nơi cho thêm rau muống chẻ và bắp chuối bào. Thêm một gia vị cuối cùng không thể không nhắc đến đó là giấm ớt xay. Vị mắm mặn mặn, quyện vào một chút chua của giấm và một chút cay của ớt thì cho dù một người đã no bụng vẫn có thể húp hết một tô bún mắm như thường.

Từ khi rời VietNam, ông Khương suốt ngày cứ ngồi mơ tưởng đến tô bún mắm. Ông biết rằng ở bên đây cũng có những nhà hàng quảng cáo có món bún mắm trong thực đơn của họ, nhưng ai mà tin được. Món này mà nấu không ngon, nồng mùi mắm và không thơm mùi xả là hỏng bét. Chưa hết, cá hay tôm mà không được tươi thì tô bún chỉ có nưốc đem đổ. Thế là sau bao nhiêu ngày suy nghĩ, ông Khương quyết định sẽ tự tay nấu cho mình một nồi bún mắm thật to để ăn cho đã thèm.

Hên cho ông Khương là mặc dù người Tây không ăn mắm, nhưng muốn mua được mắm cũng không có gì là khó khăn. Cứ việc đi vô shop VietNam hay shop Tàu thì muốn mắm gì cũng có. Một khi đã mua được mắm rồi thì những thành phần khác chỉ là chuyện nhỏ. Sau khi có đầy đủ tất cả các món cần thiết, ông Khương hăng hái bắt tay vào nấu.

Hôm đó trời gần vào đông, vừa sửa soạn, ông Khương vừa nghĩ đến lúc ngồi húp tô bún nóng hổi giữa cái trời lanh lạnh này thì không còn gì thú bằng. Giá như lúc đó mà Thần Chết có hiện lên ra 1 điều kiện, nếu ông Khương chịu chết trước lúc ăn tô bún thì sẽ được lên thiên đàng, nếu không sẽ bị xuống địa ngục thì ông Khương cũng sẽ không ngần ngừ chọn option thứ hai. Ăn tô bún mắm trước đã, rồi có xuống Hỏa Ngục ông cũng vui lòng.


Đang trông trạng thái mơ màng như vậy thì cô con gái đi làm về. Trước khi bước chân vô nhà, cô đã nghe có mùi mắm, nhưng cô nghĩ chắc là của những nhà ViệtNam lân cận bay sang chứ không nghĩ là từ nhà mình bay ra. Bởi vì cô đã căn dặn Ba cô rất nhiều lần là đừng có nấu những món gì có dính dáng mấy con mắm vô, rất là khó ngửi. Và ông Khương cũng đã đồng ý với cô như vậy. Nhưng hôm nay ông Khương quên hết những lời hứa với cô con gái, mãnh lực của tô bún mắm làm ông quên hết tất cả. Chỉ đến khi nghe tiếng cô con gái la lên, ông mới hoàn hồn trở lại.

Hóa ra, khi vào nhà, cô con gái mới tá hỏa tâm tinh khi phát hiện ra cái mùi mà cô cho là khó ngửi đó, từ nhà mình tỏa ra chứ không phải từ nhà hàng xóm hàng xiếc nào hết. Trong cơn giận dữ, cô mắng nhiếc ông Khương không tiếc lời. Ôi, hình ảnh tô bún mắm trong đầu ông Khương bỗng biến mất, nhường chỗ cho một cảm giác ê chề khôn tả. Ông lặng lẽ đem đổ nồi mắm rồi lên giường nằm. Nuối tiếc nồi mắm một, mà nổi buồn trong lòng ông đến một ngàn. Ông không ngờ chỉ vì sợ hôi nhà mà cô con gái của ông hóa ra bà la sát.

Buồn tình, ông gọi cho thằng con trai kể lể sự tình. Người con trai sốt sắng bảo ông Khương cứ đến ở với anh, ông muốn nấu mắm gì cũng được, kể cả mắm bù hóc.

Ông Khương nghe mở cờ trông bụng. Ít ra cũng còn được thằng con trai chứ. Ông khăn gói qua ở nhà thằng con út. Nhưng cũng được chẳng bao lâu thì chén đũa lại khua tiếp. Hóa ra, anh con trai cũng chả tôt bụng gì. Anh biết ông Khương còn một số tiền bán nhà ở Vietnam, nếu ông qua ở với anh thì không ít thì nhiều, ông cũng phải biết điều mà xì ra chút tiền gọi là phụ thêm.

Tiền của ông Khương thì anh lấy, nhưng cái câu hứa cho ông nấu mắm bù hóc cũng được thì chẳng thấy đâu, có thể cái hôm mà anh nói câu đó thì anh đang say rượu chăng.

Ở với con gái không được, con trai cũng chẳng xong, ông Khương quyết định đi làm farm. Thật ra làm farm chỉ là cái cớ, cỡ tuổi ông có làm farm cũng chẳng được bao nhiêu, cái chính là ông chỉ muốn đi xa hai đứa con, càng xa càng tốt. Ông làm farm rồi ở hẳn trên farm luôn.

Trời cho ông có cung Tự xấu nhưng cung Nô thì rất tốt. Những người làm farm chung với ông phần lớn trẻ hơn ông rất nhiều. Họ rất cảm thông khi thấy một người lớn tuổi như ông còn phải cực nhọc, thế là nhờ mọi người giúp một tay, số lượng gặt hái được của ông Khương mỗi cuối ngày cũng kha khá. Tình đời thật là lạ, con cái mình đẻ ra nuôi dưỡng thì không coi mình ra gì, còn người dưng nước lã lại đối với mình thật tốt.

Thế rồi ở hiền gặp lành, ông Khương trúng số. Trước khi quyết định báo tin mình trúng số cho hai đứa con, ông cũng suy nghĩ rất nhiều. Cuối cùng ông tắc lưỡi, thôi kệ tụi nó dù gì cũng là máu mủ của mình.

Thôi thì khỏi phải nói đến phản ứng của hai người con, người nào cũng muốn ông Khương về lại với mình. Sau bao ngày cân nhắc, ông quyết định về ở lại với cô con gái, dù gì con gái nó cũng biết lo lắng cho mình lúc trái gió trở trời hơn những thằng con trai.

Ông Khương về hôm trước, hôm sau đã nghe cô con gái âu yếm hỏi “Ba muốn ăn bún mắm không, con mua đồ về nấu cho ba an nha”. Còn anh con trai thì mỗi tuần ghé mấy bận để hỏi thăm xem Ba có khoẻ không. Ông Khương rất vui, nhưng trong tiềm thức, ông không biết hai đứa con của mình có phải thật lòng thương mình hay không, hay chỉ vì cái món tiền trúng số của ông.

Tri nhân tri diện bất tri tâm, ông Khương không thể nào biết được cô cậu ấm đang nghĩ gì trong đầu, cho đến một hôm ông ngã bệnh. Cô con gái thay vì sốùt sắng đi mời thầy thuốc, thì cô lại hăng hái đi mời một luật sư. Theo cô, ở bên này ai cũng phải làm di chúc để lại tài sản cuả mình cho những người thân.

Đến nước này thì ông Khương không còn nghi ngờ gì nữa, nỗi buồn khi biết được sự thật đã thật sự quật ngã ông, Ông biết rằng cái ngày ông được gặp bà Khương sẽ không còn bao xa nữa. Ông đồng ý làm di chúc nhưng với điều kiện là chỉ giữa ông và người luật sư thôi.

Đám tang ông Khương diễn ra lặng lẽ. Trời mưa lất phất như để tiễn đưa một người cha bất hạnh. Sau đám tang, hai người con chạy như bay đến văn phòng luật sư để lấy tờ di chúc.

, họ có đang nằm mơ hay không, dụi mắt mấy lầøn vẫn những dòng chữ như vậy. Ông Khương đã đồng ý để lại hết gia tài của mình cho những hội từ thiện.

Mắt cô cậu ấm nhòa lệ...

Lan Anh

10/2002

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 844,329,388
Tác giả từng sống ở trại tỵ nạn PFAC Phi Luật Tân gần mười một năm. Ông tên thật Trần Phương Ngôn, hiện hành nghề Nail tại South Carolina và cũng đang theo học ở trường Trident Technical College. Với bài "Niềm Đau Ơi Ngủ Yên" viết về trại tị nạn Palawan-Philippines, Triều Phong đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Bút hiệu của tác giả là tên thật. Bà cho biết sinh ra và lớn lên ở thành phố Sài Gòn, ra trường Gia Long năm 1973. Vượt biển cuối năm 1982 đến Pulau Bibong và định cư đầu năm 1983, hiện đã nghỉ hưu và hiện sinh sống ở Menifee, Nam California.
Tháng Năm tại Âu Mỹ là mùa hoa poppi (anh túc). Ngày thứ Hai của tuần lễ cuối tháng Năm -28-5-2018- là lễ Chiến Sỹ Trận Vong. Và Memorial Day còn được gọi là Poppy Day. Tác giả Sáu Steve Brown, một cựu binh Mỹ thời chiến tranh VN, người viết văn tiếng Việt từng nhận giải văn hóa Trùng Quang trước đây đã có bài về hoa poppy trong bài thơ “In Flanders Fields”. Nhân Memorial sắp tới, xin mời đọc thêm một bài viết khác về hoa poppy bởi Phan. Tác giả là nhà báo trong nhóm chủ biên một tuần báo tại Dallas, đã góp bài từ nhiều năm, từng nhận giải Vinh Danh Tác Giả Viết Về Nước Mỹ. Ông cũng là tác giả Viết Về Nước Mỹ đầu tiên có nhiều bài đạt số lượng người đọc trên dưới một triệu.
Với bài “Hành Trình Văn Hóa Việt tại UC Irvine”, tác giả đã nhận Giải Việt bút Trùng Quang 2016. Ông tốt nghiệp cử nhân về Ngôn Ngữ Học tiếng Tây-Ban-Nha tại UC Irvine. Sau 5 năm rời trường để theo học tại UCLA, tốt nghiệp với hai bằng cao học và tiến sĩ về ngành Ngôn Ngữ Học các thứ tiếng gốc La-Tinh, ông trở lại trường cũ và trở thành người đầu tiên giảng dạy chương trình tiếng Việt, văn hoá Việt tại UC Irvine từ năm 2000 cho tới nay. Sau khi nhận giải Việt Bút Trùng Quang 2016, tác giả vẫn tiếp tục góp thêm bài viết về nước Mỹ.
Tác giả 58 tuổi, hiện sống tại Việt Nam. Bài về Tết Mậu Thân của bà là lời kể theo ký ức của cô bé 8 tuổi, dùng nhiều tiếng địa phương. Bạn đọc thấy từ ngữ lạ, xin xem phần ghi chú bổ túc.
Tác giả hiện là cư dân Arkansas, đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2017. Bà tên thật Trịnh Thị Đông, sinh năm 1951, nguyên quán Bình Dương. Nghề nghiệp: Giáo viên anh ngữ cấp 2. Với bút hiệu Dong Trinh, bà dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7, 2016, và luôn cho thấy sức viết mạnh mẽ và cách viết đơn giản mà chân thành, xúc động. Sau đây, là bài mới viết về đứa con phải rời mẹ từ lúc sơ sinh năm 1975, hơn 40 năm sau khi đã thành người Mỹ ở New York vẫn khắc khoải về người mẹ bất hạnh.
Tác giả sinh trưởng ở Bến Tre, du học Mỹ năm 1973, trở thành một chuyên gia phát triển quốc tế của USAID, hiện đã về hưu và an cư tại Orange County. Ông tham gia VVNM năm 2015, đã nhận giải Danh Dự năm 2016 và giải á khôi “Vinh Danh Tác Phẩm” năm 2017. Bài mới của ông nhân Ngày Lễ Mẹ kể về người Mẹ thân yêu ở quê hương.
Hôm nay, Chủ Nhật 13, Mother’s Day 2018, xin mời đọc bài viết đặc biệt dành cho Ngày Lễ Mẹ. Tác giả tên thật Trần Năng Khiếu. Trước 1975 là Công Chức Bộ Ngoại Giao VNCH. Đến Mỹ năm 1994 theo diện HO. Đã đi làm cho đến năm 2012. Hiện là công dân hưu trí tại Westminster. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 8/2015. Đã nhận giải đặc biệt 2016. Nhận giải danh dự VVNM 2017.
Chủ Nhật 13 tháng Năm là Ngày Của Mẹ tại nước Mỹ năm 2018. Mời đọc bài viết của Nguyễn Diệu Anh Trinh. Tác giả sinh năm 1959 tại Đà Nẵng, đến Mỹ năm 1994 diện HO cùng bố và các em, định cư tại tiểu bang Georgia. Hiện là nhân viên công ty in Scientific Games tại Atlanta, tiểu bang Georgia. Bà đã góp bài từ 2015, kể chuyện về người bố Hát Ô và nhận giải Viết Về Nước Mỹ.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ bằng cách viết lời giới thiệu và chuyển ngữ từ nguyên tác Anh ngữ bài của một người trẻ thuộc thế hệ thứ hai của người Việt tại Mỹ, Quinton Đặng, và ghi lại lời của người me, Bà Tôn Nữ Ngọc Quỳnh, nói với con trai.
Nhạc sĩ Cung Tiến