Hôm nay,  

Bất Khuất Trước Nghịch Cảnh

03/08/200100:00:00(Xem: 215780)
Bài tham dự số: 02-311-vb0230

Sau khi 5 đứa em tôi được mẹ tôi gởi chúng vào cô nhi viện để đi Mỹ, hai mẹ con tôi buồn bã vô cùng. Không khí trong gia đình quá vắng lặng, ngày nào mẹ tôi cũng thở ra và nói không biết đến bao giờ mới gặp lại các em tôi, rồi nước mắt bà chảy dài, trông thật não ruột.
Chiến sự ngày càng tiến gần Saigon. Thành phố xôn xao lo di tản. Muốn gặp lại được các em tôi, cách duy nhất là phải đi Mỹ.
Ngày 15 tháng 4 năm 1975, tôi và mẹ tôi vào phi trường Tân Sơn Nhất ở, vì tôi có người dượng, ông ta là Thiếu tá Không quân. Mẹ tôi nghĩ đây là đường dễ dàng nhất để ra đi. Đến ngày 29/4/75 cả gia đình ông dượng quyết định ở lại, vì còn mẹ già phải phụng dưỡng. Thế là hết, tất cả hy vọng đều tan tành theo bọt biển.
Sáng 30/4/75 chúng tôi từ Tân Sơn Nhất trở ra để về nhà, dọc hai bên đường những xác chết còn nằm đó chưa có thân nhân đến nhận. Lúc bấy giờ tôi chỉ mới 12 tuổi, thấy vậy thôi chứ chưa biết thế nào là chế độ Cộng Sản.
Mẹ tôi là người đàn bà chưa bao giờ biết đầu hàng nghịch cảnh. Ngay ngày hôm sau Mẹ tôi đến một gia đình người Pháp, vợ ông ta là người Việt Nam, có 5 đứa con trai cỡ trang lứa như tôi. Ông ta đã mất và gia đình ông này đã đem 3 người con đi Pháp trước 1975. Mẹ tôi hy vọng gia đình bà này còn chỗ trống có thể lấp tôi vào đó được, mẹ tôi không quản ngại thế cả căn nhà chúng tôi đang trú ngụ để đánh đổi tương lai và cuộc đời của tôi, nhưng gia đình này họ đã xóa tên những người con trai của họ khi rời khỏi VN.
Suốt khoảng thời gian còn ở VN, bắt đầu từ tháng 4/75 đến 2/85, lúc nào mẹ tôi cũng tìm đủ mọi cách để làm thế nào cho tôi ra khỏi xứ.
Kế đến mẹ tôi gởi tôi vào một gia đình Phi Luật Tân, vợ ông này là người VN, bà ta có 4 đứa con riêng, họ không muốn lìa quê hương vì phải vất bỏ hết tài sản của họ, do đó tôi được thế vào cùng 3 người nữa.
Từ khi bắt đầu ghi danh vào hộ khẩu, rồi đăng ký ở sở ngoại kiều, đến khi có xuất cảnh, chúng tôi phải chịu phép rửa tội (vì ông này đạo Công Giáo), đi chích ngừa, có chuyến bay, tưởng là mọi việc được trôi chảy êm xuôi, ngờ đâu có phái đoàn Phi Luật Tân qua kiểm tra lại dân số của họ cho chính xác, còn bao nhiêu người Phi còn kẹt lại VN.
Những người Phi khác họ ganh tị vì ông này đã lấy quá nhiều tiền của chúng tôi, họ đem câu chuyện nói lại phái đoàn. Thế là bị đổ bể, chúng tôi mất thời gian quá dài 4 năm. Mẹ tôi chi phí cho vấn đề này cũng nhiều, còn bao nhiêu tài sản, tư trang bà đã đem bán sạch.
Vẫn tiếp tục, bà đi bán thuốc tây ở các chợ trời hàng ngày, kiếm thêm tiền. Bà đã cùng những người khách mua ghe vượt biên rồi bị gạt. Nhân có một chuyến đi vượt biển, mẹ tôi không ngần ngại gởi tôi đi cùng với người Dì (em họ mẹ tôi) và 3 đứa con của Bà. Khi còn ở trong ghe nhỏ (một số đã ra ghe lớn) thì chiếc ghe của tôi bị bại lộ. Tôi, dì tôi và 3 đứa em đều bị bắt, vài ngày sau thì 3 đưa nhỏ được tha về vì chúng còn quá nhỏ. Còn tôi và Dì tôi, họ đã đày chúng tôi vào Mộc Hóa (nơi mà xe không thể vào được, chỉ đi bằng xuồng, ghe nhỏ mỗi lần chỉ chở được từ 4 đến 5 người). Họ nhốt chúng tôi vào chung với những người có tội về hình sự, quá vất vả, sống những ngày tù đày dưới chế độ Cộng Sản, tôi phải mất hết 1 năm 6 tháng ở tại đây. Lúc bấy giờ tôi chưa học hết ban trung học.
Khi ra khỏi tù, tôi chỉ được ở nhà với mẹ tôi một thời gian ngắn, vì tôi đã đến tuổi mà người Cộng sản họ gọi là “Nghĩa Vụ Quận Sự”. Những ngày tháng trong lao tù đã cho tôi nhìn rõ bộ mặt thật tàn bạo của chế độ Cộng Sản. Dù thế nào, tôi nhất quyết không thể trở thành “người lính” cho cái chế độ bất nhân ấy.
Thế là tôi phải trải qua những ngày “trốn nghĩa vụ”. Không thể ở với Mẹ nữa, tôi phải lên Thủ Đức trú ngụ với gia đình bên nội, rồi nay đây mai đó, vài ngày ở với các bạn của Mẹ tôi, vài ngày ở với bạn này, bạn khác. Thời gian này, tôi học Anh Văn, Pháp Văn và châm cứu. Chỉ đi học vậy thôi chứ không hiểu học để làm gì, tương lai mình sẽ ra sao"
Hàng tháng, muốn cho yên thân, Mẹ tôi và cả tôi mỗi khi về thăm Mẹ, phải nội 2 chỉ vàng cho phường đội, lo lót cho phường và cả cho quận.
Đến đầu năm 1985 Mẹ tôi nghĩ không biết còn cách nào để tôi có cơ hội rời quê hương. Mẹ tôi bàn với tôi thôi thì tôi lên Miên sống, nơi đây gần biển để tìm được vượt biên mà tránh được mắt của công an phường đội. Tôi lại phải xa Mẹ tôi và mang thân lưu lạc xứ người.
Tôi lên đến Nam Vang ở đậu một gia đình mà Mẹ tôi quen trước, mới đến vài tuần tìm được vượt biên. Khi mới ra biển là bị bắt ngay, vì người Miên họ biết tôi là dân V.N. lên đây tìm đường vượt biên, vì dáng dấp của tôi cao lớn trắng mập khác hẳn với dân bản xứ. Khi đi Mẹ tôi có cho tôi mấy khâu vàng, tôi và một người thanh niên cùng đi trong chuyến phải chờ 3 ngày sau mới tìm lại được trong phân của tôi và chia nhau để sống.
Cũng may khi còn ở VN tôi đã phụ giúp Mẹ tôi bán thuốc tây, trong các khàng hàng của mẹ tôi có một số người Miên, tôi đã học được một ít từ ngữ Miên, bây giờ là lúc tôi đem các từ ngữ đã học được ra thi thố để minh bạch cho mình, tôi bảo “tôi lên đây để tìm cách sinh sống chứ không phải để vượt biển”. Họ tin và họ cho tôi ra về.


Sau đó tôi phải nhờ gia đình tôi trú ngụ cho tôi vào hộ khẩu để vô quốc tịch Miên, để che mắt phường và cảnh sát địa phương tôi phải để râu và tóc dài, và khai là tôi đã 39 tuổi, đó là tuổi không phải vào quân đội.

Thời gian ở đây tôi và cô gái con của gia đình này yêu nhau, chúng tôi đã kết hôn và các nghi lễ phong tục làm theo tập tục của người Miên. Sau đó chúng tôi đã ra hải cảng Kong-Pong Xom mở một tiệm thuốc tây rất nhỏ vừa là kế sinh nhai, vừa là phương tiện để tìm đường vượt biển.
Khi ở với Mẹ tôi, tôi cũng đã học được một số thuốc và cách trị liệu cộng thêm nghề châm cứu của tôi, tại đây tôi đã cứu chữa rất nhiều người trong tình trạng nguy kịch như suyễn, tiêu chảy và làm kinh...
Ở Kong Pong Xom được 18 tháng, tôi nói năng, sinh hoạt hằng ngày như một người Miên chính cống và mọi người ở đây đều gọi tôi là “bác sĩ Hải” nổi danh vì trị bệnh, thế là tôi được tự do và tránh được sự dòm ngó của chính quyền địa phương. Chủ tâm của tôi chỉ có một việc là tìm đường vượt biên, sau khi dò la và biết được mối lái, chúng tôi đã bằng lòng đóng vàng cho họ để ra đi.
Ngày hẹn ra đi, tiệm thuốc của tôi vẫn mở cửa buôn bán như thường lệ. Trong khi nhờ bà mẹ vợ đứng ra bán hàng, chúng tôi đã dùng đường phía sau để ra đi.
Lên ghe được vài tiếng đồng hồ vẫn còn trong hải phận Miên, chủ ghe sợ bại lộ vì trời hãy còn sáng không thể vượt qua biên giới được, họ tạm để chúng tôi trên một hòn đảo nhỏ và hẹn sẽ trở lại đón chúng tôi vào lúc hoàng hôn. Chiếc ghe quá nhỏ chỉ đủ để chứa 8 người, mọi người ai nấy đều lo lắng, nếu họ không trở lại thì sao" Nếu chiếc ghe bị bại lộ thì sao"
Ngay lúc đó có một toán tuần lưu V.N. đến đảo này để đi tuần, ai nấy đều xanh mặt vì đoàn của họ chỉ cách toán của chúng tôi trong gang tấc. Tất cả chỉ còn biết cầu nguyện. Hình như một phép lạ đã che chở chúng tôi, bọn tuần lưu đi qua, mọi người ai nấy đều thở phào nhẹ nhõm.
Chờ đến trời hơi tối chiếc ghe đã trở lại chở chúng tôi đi, đi độ 4 giờ, chủ ghe đã bỏ chúng tôi ngoài khơi, vì họ đã qua hải phận Thái Lan và họ không thể vào bờ được, chúng tôi phải lội nước khoảng 2 cây số, vừa đói vừa mệt tôi đã xỉu khi đến bờ. Thấy đèn ở các ngôi nhà ven biển chỉ tưởng mình nằm mơ và không thể hình dung được mình đã đến đất Thái Lan.
Được người dân tại đây chỉ đường, 8 người chúng tôi đến đồn Cảnh sát Thái để trình thú. Khi đến đây chúng tôi được họ cho biết chỉ còn 10 ngày nữa là họ sẽ đẩy ra khỏi các tàu vừa cập bến Thái Lan. Trước đó họ cũng đã bắn chết rất nhiều người ngoan cố vào bờ. Đến đây tôi phải cám ơn Trời Phật và thầm nghĩ có bàn tay vô hình của Ba tôi đã giúp đỡ tôi.
Thế là chúng tôi được vào trại tỵ nạn Thái Lan. Ơû đây độ 4 tháng, họ cứu xét hồ sơ, vì trước đây ba tôi là kỹ sư điện và đã đi tu nghiệp ở Mỹ, nên họ thấy bấy nhiêu bằng chứng là họ chấp thuận ngay, tôi và vợ tôi được chuyển sang Phi Luật Tân để học Anh văn 6 tháng. Đây là trại chuyển tiếp để đến Mỹ.
Đúng ngày 20 tháng 11 năm 1988, chúng tôi lên đường sang định cư tại Mỹ. Hai đứa em tôi đã bảo lãnh tôi đến Austin Texas, tôi đang bắt đầu một cuộc đời mới. Bấy giờ tôi đã 26 tuổi rồi.
Tôi như bao nhiêu người tỵ nạn khác, khi gia nhập vào một xã hội mới không khỏi gặp những khó khăn trong thời gian đầu.
Tôi xin được một chân chạy bàn cho một nhà hàng, họ bảo tôi làm chậm tôi bị đuổi việc. Kê tôi xin vào làm cho tiệm “Fast Food” Sonic, họ chê tôi ngu “You’re very stupid” vì chưa kinh nghiệm để nướng thịt, lại bị đuổi.
Trời vào tháng 12 tại Texas khí hậu rất khắc nghiệt, lạnh như xé da, mượn được một chiếc xe đạp đi hàng chục miles để chùi những cánh phi cơ, tìm được một ít tiền để trả tiền nhà, tiền ăn vv.... Ráng lần qua một năm để khi vào trường nhẹ được khoảng tiền học.
Đến đầu năm 1990 tôi ghi danh vào đại học về môn “sinh vật học” lòng tôi hân hoan vô cùng. Quá khó khặn về vấn đề sinh ngữ, cuốn tự điển bao giờ cũng ở bên mình tôi, tôi không quản ngại ngày đêm, vùi đầu vào sách vở, học thâu đêm suốt sáng, Tôi nghĩ không có cái cực nào bằng lao tù Cộng Sản, mình còn vượt qua được. Nay đã tới được đất nước đầy cơ hội này, được học hành để tiến thân, thì lẽ nào mình lại không chu toàn.
Sau 3 năm vùi đầu vào kinh sử, tôi đã lấy được bằng B.A với hạng ưu. Để không mất thời gian tôi nộp đơn ngay vào 3 trường Nha tại Texas, cả 3 trường đều gọi tôi phỏng vấn. Cuối cùng tôi chọn trường Nha tại San Antonio. Trường nha này đứng vào hàng đầu của nước Mỹ và lại gần nhà, cuối tuần tôi có thể về thăm gia đình (bây giờ vợ tôi Dany đã sanh được một cháu trai đầu lòng). Hơn nữa tại đây tôi có người dì đã giúp đỡ tôi 4 năm liền trong vấn đề ăn ở.
Sau bốn năm vất vả, với sự cố gắng không ngừng, tôi đãõ đoạt được mảnh bằng Bác Sĩ Nha Khoa, và được vinh dự đứng đầu toán 10 người ưu tú trên 93 sinh viên tốt nghiệp, làm khách mời của Đại Học Nha Khoa Nhật. Toàn bộ chuyến đi Nhật do họ đài thọ tất cả chi phí.
HOÀNG ĐẠI HẢI

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 844,297,866
Tác giả từng sống ở trại tỵ nạn PFAC Phi Luật Tân gần mười một năm. Ông tên thật Trần Phương Ngôn, hiện hành nghề Nail tại South Carolina và cũng đang theo học ở trường Trident Technical College. Với bài "Niềm Đau Ơi Ngủ Yên" viết về trại tị nạn Palawan-Philippines, Triều Phong đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Bút hiệu của tác giả là tên thật. Bà cho biết sinh ra và lớn lên ở thành phố Sài Gòn, ra trường Gia Long năm 1973. Vượt biển cuối năm 1982 đến Pulau Bibong và định cư đầu năm 1983, hiện đã nghỉ hưu và hiện sinh sống ở Menifee, Nam California.
Tháng Năm tại Âu Mỹ là mùa hoa poppi (anh túc). Ngày thứ Hai của tuần lễ cuối tháng Năm -28-5-2018- là lễ Chiến Sỹ Trận Vong. Và Memorial Day còn được gọi là Poppy Day. Tác giả Sáu Steve Brown, một cựu binh Mỹ thời chiến tranh VN, người viết văn tiếng Việt từng nhận giải văn hóa Trùng Quang trước đây đã có bài về hoa poppy trong bài thơ “In Flanders Fields”. Nhân Memorial sắp tới, xin mời đọc thêm một bài viết khác về hoa poppy bởi Phan. Tác giả là nhà báo trong nhóm chủ biên một tuần báo tại Dallas, đã góp bài từ nhiều năm, từng nhận giải Vinh Danh Tác Giả Viết Về Nước Mỹ. Ông cũng là tác giả Viết Về Nước Mỹ đầu tiên có nhiều bài đạt số lượng người đọc trên dưới một triệu.
Với bài “Hành Trình Văn Hóa Việt tại UC Irvine”, tác giả đã nhận Giải Việt bút Trùng Quang 2016. Ông tốt nghiệp cử nhân về Ngôn Ngữ Học tiếng Tây-Ban-Nha tại UC Irvine. Sau 5 năm rời trường để theo học tại UCLA, tốt nghiệp với hai bằng cao học và tiến sĩ về ngành Ngôn Ngữ Học các thứ tiếng gốc La-Tinh, ông trở lại trường cũ và trở thành người đầu tiên giảng dạy chương trình tiếng Việt, văn hoá Việt tại UC Irvine từ năm 2000 cho tới nay. Sau khi nhận giải Việt Bút Trùng Quang 2016, tác giả vẫn tiếp tục góp thêm bài viết về nước Mỹ.
Tác giả 58 tuổi, hiện sống tại Việt Nam. Bài về Tết Mậu Thân của bà là lời kể theo ký ức của cô bé 8 tuổi, dùng nhiều tiếng địa phương. Bạn đọc thấy từ ngữ lạ, xin xem phần ghi chú bổ túc.
Tác giả hiện là cư dân Arkansas, đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2017. Bà tên thật Trịnh Thị Đông, sinh năm 1951, nguyên quán Bình Dương. Nghề nghiệp: Giáo viên anh ngữ cấp 2. Với bút hiệu Dong Trinh, bà dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7, 2016, và luôn cho thấy sức viết mạnh mẽ và cách viết đơn giản mà chân thành, xúc động. Sau đây, là bài mới viết về đứa con phải rời mẹ từ lúc sơ sinh năm 1975, hơn 40 năm sau khi đã thành người Mỹ ở New York vẫn khắc khoải về người mẹ bất hạnh.
Tác giả sinh trưởng ở Bến Tre, du học Mỹ năm 1973, trở thành một chuyên gia phát triển quốc tế của USAID, hiện đã về hưu và an cư tại Orange County. Ông tham gia VVNM năm 2015, đã nhận giải Danh Dự năm 2016 và giải á khôi “Vinh Danh Tác Phẩm” năm 2017. Bài mới của ông nhân Ngày Lễ Mẹ kể về người Mẹ thân yêu ở quê hương.
Hôm nay, Chủ Nhật 13, Mother’s Day 2018, xin mời đọc bài viết đặc biệt dành cho Ngày Lễ Mẹ. Tác giả tên thật Trần Năng Khiếu. Trước 1975 là Công Chức Bộ Ngoại Giao VNCH. Đến Mỹ năm 1994 theo diện HO. Đã đi làm cho đến năm 2012. Hiện là công dân hưu trí tại Westminster. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 8/2015. Đã nhận giải đặc biệt 2016. Nhận giải danh dự VVNM 2017.
Chủ Nhật 13 tháng Năm là Ngày Của Mẹ tại nước Mỹ năm 2018. Mời đọc bài viết của Nguyễn Diệu Anh Trinh. Tác giả sinh năm 1959 tại Đà Nẵng, đến Mỹ năm 1994 diện HO cùng bố và các em, định cư tại tiểu bang Georgia. Hiện là nhân viên công ty in Scientific Games tại Atlanta, tiểu bang Georgia. Bà đã góp bài từ 2015, kể chuyện về người bố Hát Ô và nhận giải Viết Về Nước Mỹ.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ bằng cách viết lời giới thiệu và chuyển ngữ từ nguyên tác Anh ngữ bài của một người trẻ thuộc thế hệ thứ hai của người Việt tại Mỹ, Quinton Đặng, và ghi lại lời của người me, Bà Tôn Nữ Ngọc Quỳnh, nói với con trai.
Nhạc sĩ Cung Tiến