Hôm nay,  

Út Cưng Của Ba Vào Đời

03/07/200100:00:00(Xem: 162300)
Bài tham dự số: 02-287-vb0704


''Còn cha gót đỏ như son...''

Cũng như nhiều bé út khác, Út Chi được cả gia đình cưng ghê lắm, nhất là ba.
Nhớ ngày má mới sanh Út ra, ba đã cưng và hãnh diện về Út lắm rồi. Từ bênh viện về, ba hân hoan báo tin với mọi ngườI:
''Nè mấy đứa, em gái của tụi bay là hoa khôi đó nha.''
Mấy anh chị của Út ngạc nhiên hỏi lại ba:
''Hoa khôi gì vậy ba"''
''Thì 'hoa khôi em bé' của bệnh viện Saint - Paul đó. Tụi bay đến thăm em khỏi cần nói tên, cứ nói là muốn thăm em bé đẹp nhất là người ta sẽ dẫn tới đúng chỗ em tụi bay liền.''
Đúng như lờI ba, sau khi nói là muốn thăm ''em bé đẹp nhất,'' các anh chị được đưa đến chỗ Út Chi. ''Hoa khôi em bé'' dễ thương thật, đẹp như... Thúy Kiều: con mắt lá răm, chân mày lá liễu, cái miệng bé bé xinh xinh. Mấy anh chị xúm lại ngắm nghía ''hoa khôi'' mãi.
Ba là một người cha Việt Nam kiểu mẫu, rất nghiêm khắc với con cái. Nhưng đối với Út, ba ưu tiên lắm, ưu tiên đến nỗi mấy anh chị lớn, nhất là chị Bi, chị kế của Út, phải ganh tị. Chẳng hạn như, mấy anh chị của Út đều phải ''nếm mùi'' cái bảng đen và cái dây nịt của ba. Cái bảng đen ở phòng khách luôn luôn đứng sừng sững như một vị hung thần đối với các anh chị của Út, vì mỗi người đều phải làm bài tập của ba cho trên bảng, làm sai hoài thì sẽ bị ba... dộng đầu vô bảng. Còn dây nịt thì ''ưu tiên'' cho những ai bị điểm kém hoặc lười biếng. Riêng Út thì không hề phải nếm ''mùi vị'' của chúng, một phần vì Út học giỏi, nhưng phần lớn là tại ba viện cớ: ''Nó là Út mà.''
Còn môt luật rất khắt khe khác của ba là các con chỉ được ba gần gũi, nựng nịu cho đến năm bảy tuổI, rồi sau đó thì không được ''giỡn mặt'' nữa, nhưng Út thì vẫn được ba... gãi đầu mỗi tối cho đến khi ''lớn đại.''
Ba thường nói: ''Ba phải lo cho Út Chi học ra bác sĩ, rồi ba mới yên tâm nhắm mắt.'' Với đồng lương của một Trưởng Ty Thủy Lâm, ba đã lo được cho các anh chị lớn học hành thành tài, nên ba chắc chắn rằng Út của ba cũng sẽ trở thành Út bác sĩ.
30-4-75 ...
Mong ước của ba đã gần như sụp đổ cùng lúc với những mất mát, đau khổ chung của toàn miền Nam. Ba và má bị mất việc làm; cả nhà phải sống bằng tiền bán nữ trang của má.
Rồi đến thảm họa ''đổi tiền,'' một kiểu ''cướp ngày'' của Cộng Sản. Một lần, hai lần, rồi ba lần. Tài sản ba má dành dụm, chắt chiu trong nhiều năm đã bị những lần đổi tiền ''liếm'' mất một cách sạch sẽ, như câu chuyện ông thầy đồ đói khát đã dùng mưu liếm sạch đĩa mật trước mặt cậu học trò cả tin trong một chuyện dân gian. Ba má đau đớn nhìn các con, nhất là bé Út, rơi vào cảnh đói khổ, thiếu thốn.
Các anh chị lớn dều lần lượt lập gia đình và dọn ra sinh sống riêng, chỉ còn bé Út và chị Bi ở chung vớI ba má. Nhờ có vài công ruộng ở quê nộI, hai chị em Út vẫn no cơm ấm áo trong thời kỳ khó khăn đó. Ba sợ hai chị em Út không chịu được cuộc sống thiếu thốn ở miền quê, nên chỉ có một mình ba về quê lo làm ruộng. Đến mùa thu hoạch xong, ba phải gò lưng chở từng bao gạo mới, trắng tinh từ Bình Dương về nhà trên chiếc xe đạp cũ kỹ, ọp ẹp của ba. Tuy cực khổ nhưng ba rất vui vì cùng vớI bo bo, bánh mì , chị em Út đã có gạo trắng để ăn.
Mỗi lần chở gạo về nhà, ba không bao giờ quên chở thêm một trái mít cho Út, vì ba biết Út của ba mê ăn mít lắm. Vừa về đến nhà, không kịp nghỉ ngơi là ba đã lo xẻ mít ngay, mặc cho má cằn nhằn: ''Trời ơi, nghỉ ngơi một chút đi ông, làm gì mà gấp dữ vậy.'' ''Được rồi, tui phải xẻ liền cho con Chi nó ăn, chắc là nó thèm lắm rồi.'' Mùi mít thơm lừng bay khắp nhà, Út Chi sà xuống bên cạnh ba, mê say nhấm nháp những múi mít vàng lườm, ngọt như mật, và hơi mằn mặn vì đã thấm đẫm những giọt mồ hôi của ba.
Rồi cái ngày mà ba má luôn luôn mong đợi đã đến. Cả gia đình lên đường đến ''thiên đường hạ giớI.'' Nhưng ngày đó không có ba cùng đi với gia đình, vì ba đã đi đến thiên đường thật sự rồi. Cuộc sống đầy cực nhọc và lo toan từ sau cái ngày đen tối của cả nước đã làm cho ba phải ra đi vì chứng tai biến mạch máu não.
Như một câu tục ngữ đã nói, chị em Út bây giờ ví như một căn nhà không có nóc, không còn gì để che nắng che mưa. Từ đây, chính Út sẽ phải thay thế ba, lăn xả vào đời, trở thành ''breadwinner.''


Người anh lớn bảo lãnh gia đình qua Mỹ có những khó khăn riêng nên chỉ lo được cho gia đình trong nửa năm đầu. Má thì đã già yếu, còn chị Bi thì mặc dù rất thương má và em nhưng lại là môt cái ''kho'' chứa đủ thứ bệnh bẩm sinh, kinh niên, nên chỉ có thể làm ''mentor'' vỗ về và an ủi cho Út được thôi. Cả gánh nặng kiếm sống nuôi gia đình gồm ba người trong những năm đầu ở Mỹ đã đổ xuống vai của bé út ít nhất nhà.
Lúc đó, Út chỉ mới học xong trung học ở Việt Nam, và chỉ biết nói chút ít tiếng Mỹ, nên đâu dám đi xin việc ởû những hãng xưởng của Mỹ. Đầu tiên, Út đi làm waitress ''kiêm'' sai vặt cho một nhà hàng Việt Nam trong khu Phước Lộc Thọ. Bà chủ nhà hàng đó có cái vẻ ngoài giống như một bà phù thủy trong những chuyện cổ tích, dáng to lớn, có cặp mắt cú vọ và cái mũi rất cao và hơi quặp (có lẽ do bà đã đi sửa mũi quá nhiều lần chăng") . Không những chỉ có vẻ ngoài, bà đúng là hung thần của những ngườI làm công, nhất là đối vớI Út, một con bé luôn được sống giữa những người lúc nào cũng cưng chiều mình. Út thường hay bị mắng, nên chỉ thấy bóng của bà là Út đã chết khiếp. Với đồng lương chưa tới hai đồng một giờ, Út phải làm không ngớt tay từ sáng sớm đến tối mịt, có ngày phải làm liên tục 16 giờ. Những ngày lể, tết, việc rất nhiều, làm không kịp, nên vào những ngày này Út thường hay bị bà chủ mắng chửi. Trở về nhà, Út hay kể cho má và chị Bi nghe, và hai chị em ôm nhau khóc ròng. Má cũng khóc, vừa khóc vừa nhắc lại một điệp khúc thật buồn, ''Phải chi còn ba...''
Rồi bà phù thủy của Út đóng cửa nhà hàng vì bán ế quá. Út sợ nhà hàng lắm rồi, nghe đồn là làm cho quán cà phê vừa khỏe vừa có nhiều tiền nên Út xin vào làm ở một tiệm cà phê. Vì cũng xinh xinh nên Út được nhận, nhưng đến khi vào làm thì hỡi ôi!
Út thuộc loại ''cù lần,'' không biết chưng diện, đã vậy bao nhiêu tiền kiếm được Út đều phải nuôi gia đình, nên đâu còn tiền để mua sắm quần áo. Mỗi lần sửa soạn đi làm, Út rất khổ sở vì biết thế nào chủ cũng không hài lòng với cách ăn mặc của mình. Thêm nữa, Út chỉ biết nhõng nhẽo với ba, chứ đâu biết làm duyên, õng ẹo với mấy anh chàng vào quán để gặp ''ngườI đẹp.'' Vậy là Út lại bị mắng, bị đuổi.
Út còn làm nhiều chỗ nữa. Làm hãng, làm thư ký cho một computer store, chỗ nào cũng với đồng lương thật rẻ nhưng phải làm thật ''chăm.'' Trong những năm tháng cực khổ đó, chị Bi và Út thường ''động viên'' nhau: ''Thôi kệ, bây giờ mình ráng chịu cực đi rồi mai mốt ... chịu khổ.''
Nhưng không, ở một đất nước của tự do và cơ hội, những lờI nói đùa chua cay như vậy không được quyền và không thể biến thành hiện thực. Sau những năm dài cực khổ, làm full-time, học full-time, Út đã lấy được Associate, rồi Bachelor degree in Accounting, và xin được một chân kế toán ở thành phố nơi cả gia đình sinh sống, ''làm cho nhà nước Mỹ,'' như lời má nói.
Bây giờ thỉnh thoảng vẫn nghe má thở dài và nói ''Phải chi còn ba...,'' nhưng phần sau của điệp khúc đã hân hoan, thơ thới hơn nhiều, ''... để cho ba tụi bay nhìn thấy con Út, tuy không phải là Út bác sĩ, nhưng cũng đã tốt nghiệp đại học và cũng có 'good job' như ngườI ta.''
Má rất hãnh diện vớI ''go od job'' của Út, có ai hỏi là má nói ngay: ''Nó làm kế toán cho tòa thị chính của Mỹ đó, giống ba nó ngày xưa, cũng làm việc cho nhà nước...''.
Có lần, một người bà con nghe má nói Út làm ở ''toà thị chính'' đã hỏi má: ''Vậy mai mốt nó có được lên làm thị trưởng không"'' Sau đó, mỗi lần nghe má nói vậy, hai chị em nhìn nhau cười, và chị Bi lại chọc quê Út:
''Thôi bé lùn rán ''phấn đấu'' lên chức... thị trưởng đi cho má khoe luôn thể, chứ chỉ là kế toán thôi mà má cứ đem ''tòa thị chính'' ra khoe hoài hà ...''
''Nè, chị lùn, em hổng chịu chị cứ chọc em hoài đâu!''
Nhìn em mình ''nhõng nhẽo'' như một đứa trẻ, chị Bi sung sướng nghĩ: ''Rồi cũng có một ngày mình hết khổ, phải không bé lùn"”
Và, sau biết bao nỗi vất vả, đắng cay mà bé lùn phải chịu, chị Bi mừng thấy vẫn nguyên vẹn ở bé vẻ dễ thương, trong sáng và nũng nịu thời ''Út Cưng của Ba''.

Hè 2001
Nguyễn Hà

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 834,170,915
Tác giả lần đầu tiết về nước Mỹ từ tháng 11, 2019, với bài “Tình người hoa nở”, tháng 12, “Mùa kỷ niệm” và “Chị em trung học Nữ Thành Nội.” Cô tên thật là Nguyễn thị Minh Thuý sinh năm 1955. Qua Mỹ năm 1985, hiện là cư dân thành phố Hayward thuộc Bắc Cali và còn đi làm. Bài gần đây nhất của tác giả là “Chuyện về Những Bà Mẹ”. Sau đây là bài viết thứ 8.
Tác giả qua Mỹ năm 1998 diện đoàn tụ ODP, là một kỹ sư từng làm việc tại Kia-Tencor San Jose, California. Lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ với bài viết về Mẹ trong mùa Mother’s Day 2019, ông cho biết có người cha sĩ quan tù cải tạo chết ở trại Vĩnh Phú, vùng biên giới Việt-Hoa. Bài viết mới kể về chuyện người mẹ và tác giả thăm nuôi đúng vào những giờ phút sau cùng của người cha trong trại tù cải tạo. Tựa đề đầy đủ của bài viết: “Ba Tôi, Những Giờ Phút Sau Cùng và người bạn tù trên đất My” được rút gọn theo nội dung.
Tác giả tên thật Trịnh Thị Đông, hiện là cư dân Arkansas. Bà sinh năm 1951, nguyên quán Bình Dương. Nghề nghiệp: Giáo viên anh ngữ cấp 2. Tới Mỹ vào tháng 8, 1985, bà dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7, 2016 và đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2017. Sang năm 2018, Dong Trinh có thêm giải Vinh Danh Tác Giả, thường được gọi đùa là giải Á hậu. Sau đây, thêm một bài viết mới của tác giả.
Thời tiết Cali đầu tuần bất ngờ có mưa bụi mát mẻ, hệt như tiết xuân dù đang mùa kiết hạ. Đúng là lúc có thể mơ xuân với một truyện tình vui của Orchid Thanh Lê, tác giả đã nhận giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2015. Cô sinh tại Sài Gòn, hiện là Phó Giáo Sư tại Viện Nghiên Cứu Ngôn Ngữ Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, Monterey, Calif. Đây là bài tác giả gửi sớm, tính dành cho báo xuân Canh Tý 2020 sắp tới. Sắp họp mặt Viết Về Nước Mỹ năm thứ 20, mời đọc trước chuyện xuân.
Họp mặt phát giải thưởng và ra mắt sách Việt Báo Viết Về Nước Mỹ năm thứ XX - gồm những bài viết được phổ biến từ 1 tháng Bẩy 2018 tới 30 tháng Sáu 2019 - được quyết định tổ chức vào Chủ Nhật 11 Tháng Tám 2019, và 16 tác giả sẽ nhận các giải thưởng.
Tác giả dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng Sáu 2017, cô đã nhận giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ năm thứ XIX và hiện là cư dân Los Angeles, công việc: làm tax accountant. Bước sang năm thứ 20 của giải thưởng, tác giả tiếp tục cho thấy một sức viết mạnh mẽ khác thường. Sau đây, thêm một bài viết mới.
Father's Day 2019, mời đọc bài viết mới của Hoàng Chi Uyên. Tác giả là một chuyên viên xã hội từng nhận giải thưởng lớn khi được bình chọn là nhân viên xuất sắc trọn năm 2003 và phụ trách Phòng Xã Hội, thuộc Trung Tâm Cao Niên thành phố Milpitas, Bắc California, và đã về hưu. Tháng Ba 2019, bà góp bài viết về nước Mỹ đầu tiên: "Bà Ngoại Khác Chủng Tộc" kể về hoạt động xã hội; Bài thứ hai: "Ban Cướp Biển," hồi ký về nhóm điều tra chống cướp biển trại tị nạn Pulau Bidong.
Mùa Father's Day, mời đọc chuyện “Ba Thế Hệ Cha và Con" của tác giả từng nhận giải Danh Dự VVNM 2013. Bài viết mới của Vĩnh Chánh là hồi ký về một gia tộc hoàng phái quyền chức, với những mảnh vỡ trôi dạt từ trong ra ngoài nước.
Chủ Nhật 16/6 là Father’s Day 2019. Mời đọc bài viết đặc biệt của tác giả từng nhận giải Danh Dự VVNM năm thứ mười chín, 2018. Bà.cùng hai con gái tới Mỹ ngày 27 tháng Bảy 2001 theo diện đoàn tụ. Bà hiện là chủ tiệm Nails ở Texas và kết hôn với một người Mỹ. Về người cha được tưởng nhớ, mời coi lại hình ảnh và bài viết “Công Chúa Triều Nguyễn” do tác giả Tôn nữ Trấn Định Minh Nguyệt thời đổi đời, trong đồng phục tài xế taxi tại Huế, lái xe đưa thân phụ Vĩnh Bạch từ Mỹ về, cúng đền Trấn Định Quận Công tại Truồi
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng Năm 2019. Ông là anh cả trong 9 anh chị em, có người cha chết trong trại cải tạo Vĩnh Phú từ 1979, bà mẹ một mình lo cho các con. Ông qua Mỹ năm 1998 diện đoàn tụ ODP, hiện là một kỹ sư, làm việc tại Kia-Tencor San Jose, California. Bài viết mới được “Viết trong ngày sinh nhật 88 của Mẹ,” Tựa đề được trích từ lời kết của bài viết xúc động: “Căn bệnh Alzeithmer với mẹ cũng là một may mắn trong muôn vàn bất hạnh. Cái quên, cái lẫn sẽ làm mẹ có thể sống được với tôi, với con cháu thêm một thời gian.”