Tác giả Phạm Đình Mai 55 tuổi. Trước 1975, tốt nghiệp luật khoa Saigon, làm Phó giám đốc Việt Nam Công Thương Ngân Hàng tại Chợ Lớn. Ban ngày làm ngân hàng, ban đêm và ngày nghỉ làm thầy địa lý cho người Hoa ở Chợ Lớn. Sau 1975, sau 19 lần vượt biên thất bại, lần thứ 20, ông một mình vượt biên đường bộ qua Miên, đi ghe qua Thái. Đến Mỹ ngày 21-12-1988. Mở văn phòng địa lý&tử vi Thiên Cơ ở quận Cam từ năm 1989 đến nay. Bài viết được đăng 2 kỳ.
Tôi không nhớ quyển sách nào có bài học Anh-ngữ gây ấn tượng sâu sắc nhất đối với tôi, đó là bài nói về cầu Golden Gate ở San Francisco. Cầu được bắt đầu xây cất vào năm 1933, dưới thời Tổng-thống Roosevelt. Bốn năm sau, 1937 mới hoàn tất. Đây không phải là một cây cầu dài, vì nó chỉ có 2.737m. Bề ngang 27m, nhưng việc đáng nói là chiếc cầu nặng 811.500.000 kg được treo trên 2 dây cáp. Cây cầu treo bằng 2 dây cáp chính buộc chặt ở hai đầu cầu rồi gác lên trên 2 tháp cao ngoài biển, mà đỉnh tháp cách mặt nước tới 227m. Từ cầu xuống nước là 67m.( Treo vì muốn nâng cao để tàu lớn giao thông qua lại. Đây là hành lang thủy đạo nối liền Thái-Bình-Dương với vịnh Cựu-Kim-Sơn). Sợi dây cáp có đường kính 0m92 được bện bởi 61 tao kim khí, do 27.572 sợi thép kết lại. Chiều dài của dây kim loại dùng trong 2 dây cáp là 129.000 km và chỉ nội công tác bện 2 dây cáp này đã mất 6 tháng, 9 ngày. Để sơn cầu, phải dùng hết 37.800 lít sơn màu cam. Ngày khánh thành 26.5.1937 chỉ cho người đi bộ qua cầu thôi. Trên 200.000 người đi qua trong 12 giờ đầu tiên. Ngày hôm sau tới phiên xe hơi, trong ngày đếm được 32.300 chiếc. Kỹ sư trưởng đảm nhận công trình xây cất là Joseph Baerman Strauss và cũng là người đã suy nghĩ suốt 22 năm để vẽ ra kiểu mẫu cây cầu. Sách cho rằng Golden Gate là một công trình có kiến trúc kỹ thuật xuất sắc, hoành tráng, hùng vĩ và được yêu chuộng nhất của nước Mỹ. Lại thêm ông thầy Anh-văn là người đã du học Mỹ, từng tham quan Golden Gate "tán" thêm vào, khiến tôi hạ quyết tâm phải đến đó cho bằng được.
Tôi có tên chuẩn bị đi tu nghiệp ở Nữu-Ước 2 năm Tháng 6 -1975 mới đi, tháng 4 miền Nam đã sụp đổ. Mộng tham quan Golden Gate của tôi tan tành theo vận nước.
Năm 1979, vợ chồng tôi và đứa con gái đầu lòng mới 9 tháng bị ở tù vì tội vượt biên tại huyện Châu-Thành, Bà-Rịa. Được thả ra, tôi lại tiếp tục tính chuyện ra đi. Khi tôi làm chủ ghe, khi làm tài công, lúc làm chủ bãi, lúc mua vé...19 lần thất bại, nhà tan cửa nát. Oâng hàng xóm quen một đường dây đi bộ qua Kampuchia. Nhiều chuyến đã tới. Vì đi học tập mới về, còn bị quản chế, mọi di chuyển đều gặp khó khăn. Cho nên ông đề nghị cho tôi mượn tiền, với điều kiện dẫn Lộc, con trai 10 tuổi của ông cùng đi. Ưùng trước cho người dẫn đường 5 chỉ để dẫn qua Miên. Khi tới Thái-Lan, người tổ chức sẽ lấy mật mã từng người đem về Việt-Nam, người nhà sẽ thanh toán. Oâng hàng xóm đảm bảo sẽ trả giúp, và thân nhân của tôi ở nước ngoài cũng cam kết trả lại cho thân nhân của ông ở Canada 3.000 mỹ-kim. Lần thứ 20, tôi ra đi một mình vì không còn khả năng đài thọ vợ con. Nửa chỉ vàng cuối cùng là chiếc nhẫn đính hôn, vợ tôi trao cho tôi để phòng thân. Tôi để lại nhà vì thật ra không biết sống chết thế nào. Dù sao nhờ nó, 4 mẹ con ở nhà cũng có cái ăn được đôi ba tuần để chờ tin tôi.
Lộc và tôi rời nhà vào ngày 16.7.1987. Người Miên dẫn đường phát cho chúng tôi một ít tiền riel. Y lên xe nào, chúng tôi lên xe đó. Y xuống đâu, chúng tôi xuống đó. Xuống Châu-Đốc, qua phà, rồi đi thuyền dọc sông Mékong. Gần tới biên giới, lợi dụng đêm tối trăng, theo đường tắt băng qua rừng. Bỗng nhiên có tiếng chó sủa. Lúc đầu một con. Dần dà 4, 5 con sủa inh ỏi chạy phía sau. Tôi than thầm khổ mạng. Chắc chắn là chó của công an biên phòng Việt-Nam. Bị bắt lại lần này, ở tù lâu lắm. Trong tột cùng vô vọng, tôi quay phắt lại chỉ đám chó: " Đứng lại. Tao không ăn thịt chó, tụi bây không được hại người! " Tự nhiên đám chó chúc cái mõm lên cao rồi gừ gừ đứng lại. Lộc nói " Phép chú Mai ngầu quá". "Phép khỉ gì, đi lẹ lên".
Lọt qua biên giới, người dẫn đường đón chiếc xe Daihatsu . Chúng tôi vào thủ đô Phnom Penh. Họ ếm chúng tôi trên lầu cùng với mười mấy người khác. Ban tổ chức dặn dò không được đi đâu, nhưng tôi cũng trốn ra tìm tới ông cậu vợ, người Long-An đi tập kết về đang làm chỉ huy trưởng kiểm soát quân sự, (tức là quân cảnh) để xin theo xe bộ đội đi Siem Riep. Mục đích là để tham quan đền Đế-Thiên Đế-Thích. Sợ rằng chuyến đi này chưa chắc còn sống để trở lại Miên, nên đánh liều để xem cái kỳ quan thế giới này ra làm sao. Mấy ngày sau trở về, mới biết lẽ ra nhóm chúng tôi đã lên đường, nhưng còn thiếu người. Họ phải thế cái nhóm ở Sài-Gòn mới qua, vì nhóm này đã gom đủ. ( Sau này khi qua tới Thái-Lan, mới biết nhóm 30 người ấy đã xuống thuyền rồi, nhưng mất tích vĩnh viễn luôn ! ). Một ngày trước khi xuất phát, nhóm chúng tôi được dặn dò kế hoạch ra đi. Khi giới nghiêm chấm dứt lúc 5 giờ sáng, từng 2 người một mở cửa bước ra đường đón xe xít lô đi chung. Xe này đi xong, 2 người khác mới bước ra đón xe tiếp, không ra đông người sợ bị lộ. Các thanh niên rời nhà lên xe. Tới phiên tôi và Lộc đi chung. Tôi đón nhằm một ông già. Chiếc xít lô của ông rít lên cót két rồi lẹt đẹt phía sau. Những người kia đón nhằm thanh niên sung sức, nên họ đạp xe bon bon đi xa mất dạng. Sương mù dày đặc không trông thấy gì hết. Tôi hoang mang vì làm sao thấy được cây cầu mà xuống xe " Đã 40 phút rồi mà tứ bề sương giăng mù mịt. Tôi bảo Lộc rán nhìn bên trái, tôi nhìn bên phải để tìm cây cầu. Tôi cố mở to mắt nhìn xuyên qua màn sương. Bỗng tôi thấy một cô gái mặc áo dài trắng băng qua đường. Làm gì trên đất Miên lại có con gái mặc áo dài trắng " Tôi hỏi: "Lộc có thấy một cô áo trắng đi ngang qua không " " Có thấy ai đâu chú Mai !" Nhanh như cắt, tôi đưa tay ra dấu dừng xe. Tại sao " Vì ...
Năm 1963, tôi đến quận Hòa-Vang, để thị thực các bản sao bằng Tú-tài 1. Lúc vào lại thành phố Đà-Nẵng, trời đổ mưa. Cơn mưa mùa Hạ trút xuống như cầm chỉnh đổ. Bên tay trái tôi là dãy núi Phước-Tường. Nước trên núi tràn qua quốc lộ. Nước ngập luôn cái ống bô của chiếc xe gắn máy hiệu Suzuki dame. Bu ri ướt , xe chết máy. Tôi đành dầm mưa chịu trận. Khi mưa tạnh đã 6 giờ chiều. Bấm nút démajeur, xe vẫn không nổ. Nhờ đám trẻ chăn trâu nhào vào vô đẩy dùm rất lâu xe mới chạy được. Gần tới Ngã Ba Huế, tức là ngã rẽ bên trái sẽ ra Huế, cách 120km. Quẹo phải 5, 7 cây số là vào Đà-Nẵng. Nơi ấy có một cây cầu, người địa phương gọi là Cầu-Đỏ. Từ xa, tôi đã thấy một nữ sinh đứng đón xe ở đầu cầu. Ở ngoài Trung, đồng phục nữ sinh là áo dài trắng. Cô gái mặc quần trắng, đội nón lá, chân đi guốc, tay xách cặp đen. Tôi nghĩ bụng nếu là xe ra Huế, sẽ không bao giờ chịu dừng lại để chở học sinh một đoạn ngắn. Còn nếu xe Hội-An, Tam-Kỳ ra, thì sắp đến bến xe rồi, họ cũng không rước khách chỗ này. Trời sắp tối, đi bộ cũng xa lắm. Tôi dừng xe lại hỏi. "Em về đâu" Nếu quẹo trái ra Nam-Ô thì không tiện đường. Quẹo phải vô Đà-Nẵng thì quá giang được."- "Dạ em về ngã tư Thanh-Khê." Tôi mừng rỡ: "Được. Lên xe đi". Cô gái rụt rè leo lên ngồi ở phía sau. Một tay ôm chặc cặp da, tay phải vòng qua eo ếch của tôi. Xe chạy từ từ. Tôi hỏi: "Em tên gì""
"Dạ Đ.T. Mỵ" " Em học lớp mấy, trường nào"". "Dạ lớp đệ lục trường Hòa-Vang". Mỵ còn nói lí nhí gì thêm, nhưng tôi đã chạy nhanh, gió tạt không nghe rõ. Chưa tới 10 phút, Suzukie đã tới Ngã Tư Thanh-Khê. Tôi dừng lại, hứa hẹn. Chiều mai thứ bảy, nghỉ học, anh có xe đạp, sẽ về An-Ngãi. Có gì anh sẽ ghé nhà em chơi. Bây giờ tối rồi, anh phải đem xe về trả cho ông anh đi trực. Mỵ nói: " Nhà em dễ tìm lắm. Đi vô hết con đường đất ni. Gặp một ngã ba, thấy mấy cây dừa lửa thì quẹo phải. Đi tiếp, hồi mô thấy cái nhà có bồn gỗ đựng nước mắm ở trước sân là tới." Chiều thứ bảy hôm sau, theo đúng lời chỉ dẫn của Mỵ, tôi dắt xe đạp tìm đúng nhà không mấy khó khăn. Tôi dựng xe, tựa vào bồn nước mắm trước sân và bước vào nhà. Căn nhà tranh vách đất. Giữa nhà có chiếc bàn gỗ, trên bàn có bát nhan, hai bên có một nải chuối và một bát cơm có cắm đôi đũa. Trên bát cơm có quả trứng. Nghe tiếng tôi gọi, một người đàn bà bước ra từ phía sau. Bà hỏi: "Thầy tìm ai "". "Dạ cháu hỏi thăm, có phải nhà Đ.T. Mỵ đây không"" "Dạ phải. mà thầy dạy trường của cháu hả "" "Dạ... không !" "Vậy cậu là bạn học ở trường Hoà-Vang hả"" "Dạ cũng không phải. Chiều hôm qua, cháu lên quận về, gặp Mỵ đứng đón xe ở Cầu-Đỏ, sẵn có xe gắn máy, cháu cho qúa giang chở về đây. Mỵ có chỉ nhà, chiều ni nghỉ học, cháu đi An-Ngãi, nên ghé vô thăm rứa thôi". Người đàn bà oà lên khóc: "Cậu ơi . Con tôi bị xe Mỹ cán chết rồi cậu ơi ! Trưa hôm qua, tôi mở cửa mả cho hắn đá. Tan học về hắn đi xe đạp ngang qua chỗ Cầu-Đỏ, gió thổi lật cái nón che mặt không thấy đường. Xe đạp quờ quạng, chao đảo giữa đường, bị xe cán chết ngay chỗ cầu đó". Người đàn bà tiếp tục kể lể bi thiết, đau thương. " Mẹ chỉ có mình con, con ơi. Con chết bỏ mẹ con ơi..." Lúc ấy tôi mới nhìn kỹ khung hình để đằng sau bát nhang. Đúng là Mỵ rồi ! Đôi mắt đẹp như đang nhìn tôi ngơ ngác, thăm thẳm. Tôi bủn rủn tay chân, cố gắng lắm mới lấy được bó nhang trên bàn đốt lên 3 cây và thầm khấn. " Mỵ ơi. Em đã chết thật rồi. Trong cõi u minh, thần thức của em cứ tưởng mình còn sống. Hãy về với thế giới tâm linh huyền diệu của em. Đừng gặp ai nữa. Anh sợ lắm. Anh sẽ tụng kinh cầu siêu thoát cho em." Rồi tôi đã giữ lời hứa đó sau nhiều năm...
Tôi đưa tay ngăn ông già dừng xe lại, vì liên tưởng tới Mỵ 24 năm trước. Tôi định thần độ 5 phút sau. Qua màn sương tôi lờ mờ thấy qủa có một cây cầu đúng như linh tính của tôi. Tứ bề im phăng phắc. Tôi e dè bước tới gốc cây lớn bên đường. Lúc ấy tôi mới phác giác ra chiếc xe molotova của quân đội, phủ một tấm bạt, đã nằm im lìm từ lúc nào. Tôi vòng tới trước cabin bước lên thử nhìn vào trong. Tôi giật mình vì trong tay lái đang có một gương mặt đen sì lỏ mắt nhìn ra tôi. Tôi đánh liều hỏi đại: " Chiếc xe này chờ chúng tôi phải không "" Câu hỏi không được trả lời. Tôi hỏi tiếp: " Parlez vous Francais " Do you speak English "" Tên lính Miên lắc đầu. Vừa hồi hộp, vừa hoang mang, tôi đáo ra sau dở tấm bạt thò tay vào trong, thì ra người ngồi lúc nhúc trong đó. Tôi hối Lộc leo lên và tôi cũng chui vào. Tôi lên tiếng hỏi: "Có Dung trong này không"" Im phăng phắc. Vậy là nguyên toán mười mấy người cùng nhà với tôi đã không nhìn thấy cây cầu. (Về sau này, khi có liên lạc, mới biết nguyên nhóm chạy mãi tới sáng thì bị công an Miên bắt, giao cho công an biên phòng Việt-Nam.)