Hôm nay,  

Tháng Ngày Qua Mau

11/01/200100:00:00(Xem: 146154)
Chiếc trực thăng dồn hết tàn lực chúi mũi nhổng đít ì ạch nhấc càng rờI bãi đáp bỏ lại đằng sau những cụm khói đen, và tiếng đạn pháo trực xa điếc tai kinh khiếp của Cộng quân vào phi trường Cù Hanh đang bốc lửa trên thị trấn Pleiku vùng Tây Nguyên biên trấn.

Tôi may mắn có mặt trên chuyến bay cuối cùng này vì người phi công đón tôi tại cổng bộ tư lệnh quân đoàn 2 đã bỏ ngõ là người bạn tôi quen từ những buổi uống cà phê nhìn mưa giăng đầu núi ở cái thành phố heo hút buồn thảm này. Vừa về đến Nha Trang chưa kịp nhìn hoàng hôn rơi trên vùng biển thơ mộng tôi lại tất tả chạy xuống tàu theo lớp sóng ngườI lánh nạn xuôi nam vào Phú Quốc, trở ngược lại Sài Gòn để rồi chỉ không đầy hai tuần sau đó tôi lại bôn tẩu vào Hải Quân Công Xưởng xuống chiếc Dương Vận Hạm chỉ còn 1 máy chánh lê lết trên sông Sài Gòn trong đêm cuối tháng Tư trước khi ông tổng tư lệnh quân đội đoc lời đầu hàng nhục nhã.

Tàu ghé Subic Bay sau đó là những ngày đêm trong hầm gạo lúc nhúc đầy ngườI trên chiếc thương thuyền lênh đênh trực chỉ đảo Guam xa xôi.

Bộ quân phục dơ bẩn bạc màu trên người tôi đã biến thành màu trắng khi đám nhân viên Hồng Thập Tự thi nhau xịt thuốc khử trùng, đàn ông rẽ phải, đàn bà sang trái để biểu diễn màn tắm tập thể của người tiền sử. Tôi ngoái nhìn bộ quân phục vứt chung với đám quần aó mọi người mà tâm hồn bỗng xót xa cho thân phận lính thú tan hàng rã ngũ cuả mình, để rồi cuối cùng khoác lên ngưòi bộ thường phục vừa được phát và tôi bỗng dưng trở thành ngườI tị nạn Việt Nam trên hòn đảo tí hon giữa lòng Thái Bình Dương bao la.

Cuộc sống ở đảo Guam thật nhàn hạ, nhàm chán dù ngày hè ở đây rực rỡ bên đại dương xanh ngắt mây trời. Tôi sáng xếp hàng chờ cơm, tôi trưa xếp hàng lãnh cơm, tôi chiều xuống đúng đợi muỗng cơm nhão nhoẹt, và cũng vẫn tôi chiếc bóng đổ dài trong hàng cháo tối (món cháo Guam được chế tạo bằng đồ dư ban ngày đổ hết vào ngoáy nhừ hơn cám heo) đúng đấu láo cùng đám bằng hữu mỗI đêm.

Một hôm bước chân vô định đưa tôi đến văn phòng thiết lập hồ sơ vào Mỹ. Người Mỹ phụ tránh lo giấy tờ hỏi tôi muốn đến trại tị nạn nào" Tôi cười khổ trả lời.

- Tôi đâu có nhà để về, ông muốn đưa tôi đến đâu cũng được.

Và hai ngày sau đó tôi bước lên máy bay vào đất Mỹ tại trại tị nạn Indian Town Gap (căn cứ pháo binh của Lục Quân Hoa Kỳ tạm thờI đóng cửa) thuộc tiểu bang Pensylvania. Cũng lại những buổi sáng, buổi trưa xếp hàng chờ cơm. Nhưng ở đây tươm tất hơn vì có từng dẫy bàn với ghế ngồi lịch sự. Trại chia làm 6 khu riêng biệt. Những dẫy nhà hai tầng được sửa chữa làm phòng ngủ tập thể. Mỗi gia đình tùy theo số người sẽ được cấp số giường ngủ tương đương. Nhiều trẻ em đã chào đời tại đây không biết có phải vì tình trạng chung đụng này không!"

Để ngày bớt dài tôi tình nguyện làm việc trên phòng thăm viếng, tiếp những người Mỹ bảo trợ liên lạc với gia đình được bảo trợ và thông dịch cho họ nếu cần. Với số vốn ngoại ngữ ăn đong lại rơi rớt gần hết trong cuộc chiến chẳng bao giờ xài đến, nên mỗi chiều về tôi phải bóp dầu cù là vì hai tay mỏi nhừ còn hơn cả nhiệm sở kéo neo của những ngày tháng đã mù khơi. Tuy nhiên những người bảo trợ rất thông cảm với nỗi khó khăn và sự cố gắng của tôi nên thỉnh thoảng đem tặng lúc thì gói cà phê uống liền khi hộp bánh bich qui cho tôi có dịp tụ họp dăm người bạn vừa uống cà phê ăn bánh vừa ưu tư cho những ngày tháng vô định sắp tới.

Một buổi sáng cũng như tất cả những buổi sáng đã qua, tôi vừa bước vào phòng khánh tiết của trại bỗng gặp một vài người tị nạn đã được bảo trợ ra ngoài trước đây mấy tuần. Họ đang huyên thuyên thuật chuyện vớI nhau về đờI sống bên ngoài và công việc đang làm. Tôi đến góp chuyện với họ và cũng muốn để được hiểu biết thêm về cái thế giới huy hoàng bên ngoài trại tạm trú này. Họ cho biết là mọi người đều đã có công ăn việc làm và công việc chẳng có gì khó khăn cả ngoài ngày tám tiếng chặt cổ gà chết với tiền công hai đô mỗi giờ.

Mỗi ngày 8 tiếng, tuần 40 tiếng vị chi được 80 đô, số tiền lớn quá làm sao xài hết được. Chả bù với thờI gian đi lính của tôi mỗi lần lãnh lương xong trừ tiền cơm câu lạc bộ số tiền còn lại chỉ đủ mua một gói thuốc lá và nhậu một chầu là nhẵn.

Đầu óc tôi bỗng hoạt động một cánh tích cực, toan tính chính xác phương thức xử dụng số tiền sẽ kiếm được trong tuần. Này nhé, vớI 80 đô trong túi, tôi sẽ dùng 10 đô mua La Ve (bia), vào lúc đó gía mỗI két bia khoảng từ 3 đến 4 đô là nhiều, tiền còn lại dùng cho đồ mồi, mỗi con gà làm sẵn giá chưa tờI 2 đô. Thế là chùng tôi tha hồ ăn nhậu và chỉ cần 1 tên can đảm lộI tuyết đi làm mà thôi. Chiều về tôi đem câu chuyện vừa nghe được kể cho đám bạn cùng phòng, chúng trợn mắt há hốc mồm không tin vào lỗ tai mình nữa. Ôi chỉ cần làm nghề chặt cổ gà chết mà đã huy hoàng như vậy sao!. Đám bạn tôi đứa nào cững náo nức được ra trại sớm hầu hành nghề chặt cổ gà để được sống đờI đế vương dẫu có phải đứng 8 tiếng hay hơn nữa nào có xá gì.

Tôi và gia đình được gọi lên văn phòng để hoàn tất hồ sơ xuất trại vì có ngườI đồng ý bảo trợ. Từ hôm đó tôi nao nức chờ ngày người bảo trợ tới đón. Khỏi phải nói đêm nào tôi cũng mơ thấy mình đứng giữa một núi gà tay cầm dao lăm lăm chỉ chực phang vào đầu những con gà đã chết cứng. Đôi khi trong giấc mơ tôi lại tiếc ngẩn tiếc ngơ tự trách mình tại sao lúc còn bé không chịu học kiếm thuật của ngườI Nhật Samurai để bây giờ biểu diễn chặt đầu gà chắc bọn Mỹ sẽ lác mắt kinh hồn.

Thế rồi một buổI sang thứ Bảy đẹp trờI ông bà bảo trợ đến tận trại tạm trú đón gia đình tôi về miền đất hứa, tận xứ New England mịt mù, xa xôi. Ngồi lọt trong chiếc xe mui trần láng cóng bên cạnh ông bảo trợ, tôi miên man suy nghĩ về những ngày sắp tớI với dự tính hành nghề ỏĐoạn Đầu Gàõ của mình.

Tôi e dè hỏi ông bà bảo trợ

- Ở New England có hãng chặt cổ gà không"

Dường như không tin ở tai mình, hoặc vì tiếng anh bố láo của tôi. Ông bảo trợ bèn hỏi lại.

- Mày muốn ăn chicken hả"

- Ồ, ở đây chicken rẻ lắm, rẻ hơn cả rau nữa cơ. Tao chỉ sợ ba ngày sau mày sẽ ớn chicken tớI cổ luôn.

Tôi vội xua tay, lắc đầu sau đó xuè bàn tay dang cánh như cây kiếm chém mạnh vào không khí miệng tuôn ra tràng tiếng anh ba dọi

- No, I mean the chopping chicken head's factory.

Ông bảo trợ hiểu ý tôi nên cười ngặt nghẽo, ông nói:

- Ở vùng New England này không có hãng giết gà, những hãng này phần lớn thuộc miền Trung Mỹ mới có vì là vùng trồng tỉa và chăn nuôi. Tại New England chỉ chuyên về các ngành kỹ thuật mà thôi.

Tôi tiu nghỉu như gà nuốt dây thung vì cái nghề mình mơ ước mổi đêm đã không thành sự thật.

Cái phao lại được vứt xuống khi ông bảo trợ cho biết tôi sẽ về sống với vợ chồng ông trong khu nhà 15 mẫu đất.

Tôi nhanh nhẩu:

- Lúc bé tôi biết làm vườn trồng rau và cuốc đất, tôi có thể làm vườn cho ông bà.

Lại một lần nữa ông bảo trợ giết chết mầm hy vọng vừa nhú lên của tôi.

- Sorry mày, tao hiện đang có người làm vườn, anh ta chỉ chăm sóc một mẫu hoa Hồng và toàn xử dụng máy cày, máy xới chứ không có cuốc kiếc gì cả.

Tôi ngồi chết điếng trên ghế và nghĩ thôi thế là mình thất nghiệp từ đây.

Lúc sau có lẽ vì thấy bản mặt tiu nghỉu, tộI nghiệp của tôi, ông bảo trợ bèn nghiêm nghị nói:

- Mày sẽ đi học trở lại vì đời mày còn dài và còn tương lai, nhất là ở xứ Hoa Kỳ có rất nhiều cơ hộI này.

Qủa nhiên sau đó một tháng tôi cắp sách đến trường lúc tuổi đời chập chững bước vào con số ba mươi.

Bây giờ hơn hai mươi lăm năm sau mỗi khi hồi tưởng lại chuyện xưa tôi vẫn cườI thẫm một mình vì ý tưởng ngô nghê của những ngày đầu đến Mỹ.

Nguyễn Lưu Lạc

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 844,598,696
Tác giả từng sống ở trại tỵ nạn PFAC Phi Luật Tân gần mười một năm. Ông tên thật Trần Phương Ngôn, hiện hành nghề Nail tại South Carolina và cũng đang theo học ở trường Trident Technical College. Với bài "Niềm Đau Ơi Ngủ Yên" viết về trại tị nạn Palawan-Philippines, Triều Phong đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Bút hiệu của tác giả là tên thật. Bà cho biết sinh ra và lớn lên ở thành phố Sài Gòn, ra trường Gia Long năm 1973. Vượt biển cuối năm 1982 đến Pulau Bibong và định cư đầu năm 1983, hiện đã nghỉ hưu và hiện sinh sống ở Menifee, Nam California.
Tháng Năm tại Âu Mỹ là mùa hoa poppi (anh túc). Ngày thứ Hai của tuần lễ cuối tháng Năm -28-5-2018- là lễ Chiến Sỹ Trận Vong. Và Memorial Day còn được gọi là Poppy Day. Tác giả Sáu Steve Brown, một cựu binh Mỹ thời chiến tranh VN, người viết văn tiếng Việt từng nhận giải văn hóa Trùng Quang trước đây đã có bài về hoa poppy trong bài thơ “In Flanders Fields”. Nhân Memorial sắp tới, xin mời đọc thêm một bài viết khác về hoa poppy bởi Phan. Tác giả là nhà báo trong nhóm chủ biên một tuần báo tại Dallas, đã góp bài từ nhiều năm, từng nhận giải Vinh Danh Tác Giả Viết Về Nước Mỹ. Ông cũng là tác giả Viết Về Nước Mỹ đầu tiên có nhiều bài đạt số lượng người đọc trên dưới một triệu.
Với bài “Hành Trình Văn Hóa Việt tại UC Irvine”, tác giả đã nhận Giải Việt bút Trùng Quang 2016. Ông tốt nghiệp cử nhân về Ngôn Ngữ Học tiếng Tây-Ban-Nha tại UC Irvine. Sau 5 năm rời trường để theo học tại UCLA, tốt nghiệp với hai bằng cao học và tiến sĩ về ngành Ngôn Ngữ Học các thứ tiếng gốc La-Tinh, ông trở lại trường cũ và trở thành người đầu tiên giảng dạy chương trình tiếng Việt, văn hoá Việt tại UC Irvine từ năm 2000 cho tới nay. Sau khi nhận giải Việt Bút Trùng Quang 2016, tác giả vẫn tiếp tục góp thêm bài viết về nước Mỹ.
Tác giả 58 tuổi, hiện sống tại Việt Nam. Bài về Tết Mậu Thân của bà là lời kể theo ký ức của cô bé 8 tuổi, dùng nhiều tiếng địa phương. Bạn đọc thấy từ ngữ lạ, xin xem phần ghi chú bổ túc.
Tác giả hiện là cư dân Arkansas, đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2017. Bà tên thật Trịnh Thị Đông, sinh năm 1951, nguyên quán Bình Dương. Nghề nghiệp: Giáo viên anh ngữ cấp 2. Với bút hiệu Dong Trinh, bà dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7, 2016, và luôn cho thấy sức viết mạnh mẽ và cách viết đơn giản mà chân thành, xúc động. Sau đây, là bài mới viết về đứa con phải rời mẹ từ lúc sơ sinh năm 1975, hơn 40 năm sau khi đã thành người Mỹ ở New York vẫn khắc khoải về người mẹ bất hạnh.
Tác giả sinh trưởng ở Bến Tre, du học Mỹ năm 1973, trở thành một chuyên gia phát triển quốc tế của USAID, hiện đã về hưu và an cư tại Orange County. Ông tham gia VVNM năm 2015, đã nhận giải Danh Dự năm 2016 và giải á khôi “Vinh Danh Tác Phẩm” năm 2017. Bài mới của ông nhân Ngày Lễ Mẹ kể về người Mẹ thân yêu ở quê hương.
Hôm nay, Chủ Nhật 13, Mother’s Day 2018, xin mời đọc bài viết đặc biệt dành cho Ngày Lễ Mẹ. Tác giả tên thật Trần Năng Khiếu. Trước 1975 là Công Chức Bộ Ngoại Giao VNCH. Đến Mỹ năm 1994 theo diện HO. Đã đi làm cho đến năm 2012. Hiện là công dân hưu trí tại Westminster. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 8/2015. Đã nhận giải đặc biệt 2016. Nhận giải danh dự VVNM 2017.
Chủ Nhật 13 tháng Năm là Ngày Của Mẹ tại nước Mỹ năm 2018. Mời đọc bài viết của Nguyễn Diệu Anh Trinh. Tác giả sinh năm 1959 tại Đà Nẵng, đến Mỹ năm 1994 diện HO cùng bố và các em, định cư tại tiểu bang Georgia. Hiện là nhân viên công ty in Scientific Games tại Atlanta, tiểu bang Georgia. Bà đã góp bài từ 2015, kể chuyện về người bố Hát Ô và nhận giải Viết Về Nước Mỹ.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ bằng cách viết lời giới thiệu và chuyển ngữ từ nguyên tác Anh ngữ bài của một người trẻ thuộc thế hệ thứ hai của người Việt tại Mỹ, Quinton Đặng, và ghi lại lời của người me, Bà Tôn Nữ Ngọc Quỳnh, nói với con trai.
Nhạc sĩ Cung Tiến