Biệt Ly
Tác giả: Trọng Đạt
Bài số 3014-28314-vb4101310
Tác giả tên thật là Đạt Nguyễn, cựu sĩ quan, cựu tù cải tạo, hiện là cư dân Arlington, Texas. Ông là một nhà văn có nhiều tác phẩm đã đã xuất bản, gồm tiểu thuyết và biên khảo văn học. Trong số này, "Saigon Thất Thủ" là cuốn sách nổi bật. “Biệt Ly” là một truyện ngắn với khung cảnh miền Nam thời vượt biển và đất Mỹ, trích trong tập đoản thiên Nước Mắt của tác giả Trọng Đạt, do Người Việt Dallas xuất bản, 160 trang, giá 10 Mỹ kim, mới phát hành tại hải ngọai. Xin hỏi tại các nhà sách.
***
Trên xe ô tô buýt bước xuống, Tuấn vôi rảo bước cho chóng đến nhà, bị giam hơn một năm trong trại tù vượt biên tại Sóc Trăng, lòng hân hoan phấn khởi được trở về mái nhà xưa với vợ con sau bao ngày xa cách. Cuộc đời chàng tự dưng bị lôi cuốn vào những cuộc phiêu lưu vô định kể từ sau tháng tư 1975, Tuấn đã làm đủ mọi nghề từ đi buôn chuyến theo xe đò đi tỉnh này sang tỉnh khá, làm thợ mộc thợ nề, bán thuốc tây ngoài vỉa hè, hùn hạp mở quán cà phê...Chàng chỉ thấy toàn là thất bại, chỉ đi mua thất bại.
Tuấn đã bàn với vợ ráng thu góp chút đỉnh, bán tư trang để đánh thêm một chuyến cầu may, chàng cũng đã thử lửa năm bẩy chuyến rồi, bị bắt giam ba lần, có khi vài tháng, khi thì một năm, bị lừa hai lần.. toàn là thất bại. Anh vừa đi vừa tự nhủ.
-Đi làm thì không ai mướn, đi buôn thì lỗ vốn, vượt biên thì bị bắt.. chỉ có nước chết thôi, nhất quyết lần này không đi nữa.
Tuấn bước vào nhà trước tiếng reo vui mừng của vợ con, chàng muốn đem lại sự bất ngờ cho gia đình nên không nhắn tin trước. Vào dịp gần Tết, họ thả về những người đã ở lâu, chỉ còn giam một số ít những người mới nhập trại. hàng xóm láng giềng được tin anh về cũng ghé hỏi thăm chúc mừng hai vợ chồng.
Sau khi mọi người ra về, Liên vợ chàng báo cho biết một tin mừng, ông bà nhạc bên Mỹ đã gửi giấy bảo lãnh về, diện bố con hy vọng đi được.
-Em đã nói rồi mình không chịu nghe, khó lắm, cứ đi mãi hết tiền thì chết mất, em chờ anh về rồi tuần tới sẽ làm đơn xin đi.
Tuấn buồn rầu thở dài.
-Cái số mình xui, cứ bị thua mãi, hình như chuyến này nó cũng xạo xạo thế nào ấy, vừa đổ quân là bị bắt ngay.
Chàng nhất quyết phen này thôi không tham gia nữa, chán quá rồi, nay gia đình vẫn sống nhờ tiền ngoại viện của mấy ông anh bà chị vợ bên Mỹ gửi về. Cũng may nhà Liên còn đi được bốn, năm người, gia đình chàng bốn anh chị em nhưng chỉ có một đứa em mới đi được vẫn còn ở đảo. Chàng ta cũng hơi mặc cảm, xưa làm thầy giáo, lương không đủ nuôi vợ con nay cũng vẫn phải nhờ vợ. Phần nhờ ngoại viện gia đình vợ, phần Liên cũng tháo vát xoay sở buôn bán ngoài chợ trời nên hai vợ chồng hai đứa con cũng sống qua ngày.
Tuấn chán đời, đạp xe lang thang ngoài phố ghé thăm mấy người bạn đồng nghiệp, nay chỉ còn vài người, anh thì còn tập trung cải tạo, kẻ thì đi thoát. Chỉ còn hơn một tuần nữa là Tết Nguyên đán, người Sài gòn gọi mỉa là tết quốc doanh khi những người làm công nhân viên được nhà nước bán cho mấy cân gạo nếp, thịt, mứt, kẹo... Cuộc sống ngày một thoi thóp, cũng thấy bầy bán hoa cúc, kẹo, mứt ngoài chợ, bên hè phố, người ta đi sắm tết theo tục lệ cổ xưa trong cái vui gượng gạo. Tuấn đang cầm xem hộp kẹo mứt bỗng Danh từ sau đi tới đập mạnh vào vai chàng hỏi.
-Lúc này làm gì" lâu quá không gặp, tôi mới được về cách đây mấy tháng.
Tuấn mừng hớn hở .
-Tôi cũng mới bị bắt về được vài ngày, lâu quá không gặp anh, sao nghe nói gia đình dọn về quê lâu rồi mà.
-Lại mới dọn về Sài Gòn, ở dưới ấy gay lắm, địa phương nó hắc ám quá phải tìm cách lên đây, tôi chẳng có hộ khẩu gì cả, cứ ở đại đi.
Đôi bạn học với nhau từ hồi còn trung học, cách đây gần hai năm cùng bị giam trong một trại tù vượt biên mấy tháng nay lại gặp nhau. Danh có bị đi cải tạo hai năm, xưa là thiếu úy sau bị bệnh nặng được về sớm. Từ ngày ra trại đến nay chàng ta đầu tắt mặt tối lo chạy gạo cho năm sáu cái miệng ăn trong gia đình, bà xã xưa làm giáo viên nay cũng tần tảo chạy vạy ngược xuôi. Vợ chồng con cái dầm mưa giãi nắng quanh năm suốt tháng cũng chỉ đủ bỏ vào mồm.
Tuấn theo Danh đi vào một ngõ hẻm gần ngã ba Ông Tạ, đi quanh co một lúc lâu mới tới một căn nhà tôn cũ kỹ, chật chội. Hiền, vợ Danh mừng rỡ gặp lại chàng.
-Trời ơi thế mà chúng tôi tưởng anh đi tới nơi rồi, lâu quá không gặp anh té ra anh vẫn còn ở Sài Gòn .
- Chúng tôi cũng tưởng anh chị thoát rồi, lâu không nghe tin, nhà tôi vẫn nhắc tới anh chị, có hỏi anh Hoài, anh Đức mà họ cũng không biết gì hơn, tôi đi năm sáu lần rồi chị ạ.
Hiền thở dài.
-Anh còn tiền đi năm sáu lần chứ chúng tôi làm gì có tiền, có một lần ông anh con bác Cả cho di theo nhưng bị bắt giam bốn tháng, kỳ đó có gặp anh trong trại đó, may mà nó không biết mình là cải tạo.
Nhà chẳng có bàn ghế gì ráo trọi, Danh mời bạn ngồi trên mép giường hàn huyên, anh pha trà mời bạn rồi kể lại những ngày gian khổ làm ruộng ở Bến Tre, cuộc sống đã khó khăn vất vả, lại bị cán bộ địa phương sách nhiễu, con cái học dở dang phải bỏ đi làm phụ bố mẹ. Cùng đường phải bò lên Sài Gòn dù sao cũng dễ thở hơn, Danh làm đủ nghề, làm thuê cho Công ty xây lấp, chiều về đi bỏ mối bánh kẹo cho các cửa tiệm. Hiền xưa kia gia đình khá giả nhưng nay cũng không quản nắng mưa, sáng bán xôi chè, chiều nấu bánh chưng, bánh giò bán cho học sinh tại cổng trường học, chị bảo.
-Bây giờ anh có đi bán vé số, bánh kẹo cũng không ai cười anh đâu.
Nhìn sơ căn phòng chật hẹp, đồ đạc trống trơn Tuấn cũng thừa hiểu cuộc sống của họ gian truân như thế nào, chàng cũng phục họ không quản ngại khó khăn phấn đấu để ngoi ngóp lên khỏi vũng bùn. Anh cũng mừng thầm mình tuy gian khổ nhưng cũng còn đỡ hơn họ, còn có chút ngoại viện của gia đình vợ gửi về.
Hai vợ chồng mời chàng ăn cơm, bữa ăn đạm bạc nhưng nhưng thắm thiết tình bằng hữu, đôi bạn chí cốt lâu lắm mới có dịp gặp nhau.
Đầu năm mới Tuấn đi chúc tết họ hàng rồi sang thăm vợ chồng Danh, thấy gia đình bạn đón xuân thật đơn sơ chàng không khỏi bùi ngùi xúc động. Đôi bạn ngồi cắn hạt dưa, nhắm chút rượu trắng với dăm miếng thịt quay, bàn chuyện thời sự, chuyện sinh sống suốt buổi chiều cho thoả những ngày xa cách.
Sau Tết bốn năm ngày, công an khu vực gởi giấy mời Tuấn lại phường làm việc, họ hỏi chàng bỏ địa phương đi đâu cả năm nay, anh bèn đưa ra đủ thứ nguyên do, nào ra miền Trung theo ông bác làm nhà, đi lao động dưới Ba Xuyên... kiếm tiền nuôi vợ con . Làm việc xong họ nói tuần sau lại làm bản kiểm điểm, vợ chàng hiểu ý phải nhờ người lo lót chút đỉnh họ mới để yên, cuộc sống ngày càng khó khăn gian khổ, người ta giành dật nhau vì miếng ăn lại thêm phường khóm sách nhiễu nên ai nấy tìm mọi cách thoát ly.
Đã lên quận nạp đơn đi bảo lãnh được mấy tháng qua, Liên bàn với chồng bán chiếc xe Honda để chạy xuất cảnh, chị nói nếu không chạy thì không đi được. Người ta chạy nhiều lắm, Tầu Chợ Lớn chịu chi tiền cho công an nên các chuyến đi ngoại quốc bây giờ người Tầu nhiều lắm.
Tuấn nghe lời vợ, chàng cũng chẳng có ý kiến gì hơn nay mọi chuyện đều do Liên quán xuyến, chị cũng lanh lợi tháo vát. Anh tiếc rẻ chiếc xe máy móc còn tốt nhưng cũng không dám bàn ra, nghĩ đến tương lai hai đứa con gia đình chỉ còn trông vào ngày mai, ngày mốt.
Thấm thoắt chính quyền Cộng Sản thiết lập tại miền Nam đã được năm sáu năm qua, họ ngày càng xiết chặt thêm, kiểm soát người dân ngày càng khắt khe hơn trước. Mặc dù đã có chương trình ra đi trong trật tự, mặc dù bị bắt, bị cướp, bị giết, chết chìm chết bắn.. số người vượt biên bằng đường bộ đường biển vẫn gia tăng đều đều. Gia đình Tuấn dù sao cũng còn chút hy vọng vào lối thoát cuối cùng chẳng lẽ cứ trông vào ngoại viện mãi, vợ chồng thấp tha thấp thỏm sợ chính quyền đổi ý cấm không cho gửi đồ, gửi tiền từ ngoại quốc.
Tuấn chẳng dám đi đâu xa, chỉ loanh quanh trong quận, thỉnh thoảng mới ra khỏi thành phố, nhờ người vợ tháo vát chàng cũng đỡ khổ, ngoài việc dậy kèm thêm cho hai đứa con lên tám, lên mười, anh học thêm chút tiếng Anh chờ ngày được cấp xuất cảnh. Mỗi lần lại thăm vợ chồng Danh, Tuấn ít khi nói tới bảo lãnh vì chỉ sợ vợ chồng họ buồn tủi thân cho thân phận hẩm hiu của mình . Lúc này anh chị chán nản thất vọng hơn trước, cuộc sống ngày càng khó khăn, không thấy một tia hy vọng nào, Tuấn được biết họ dự định sang năm về dưới Bặc Liêu làm ăn, chàng thông cảm hoàn cảnh bạn mà chẳng giúp gì họ được.
Ngoảnh đi ngoảnh lại đã gần một năm qua, Tết ta lại gần tới, lâu quá Tuấn không gặp vợ chồng Danh, chàng định tuần tới lại thăm bạn nhưng bận chuyện nhà mãi tới gần Tết mới ghé. Hôm ấy Tuấn đến gõ cửa nhà bạn, họ đang ngủ trưa, ai nấy trông mệt mỏi thiểu não, Hiền ra mở cửa bằng vẻ mặt u sầu, Tuấn chưa kịp hỏi chị ta đã uể oải nói.
-Ông ấy đang ngủ, dọn đồ đạc để chuẩn bị mai đi sớm, chúng tôi dọn về miền biển, ông chú bảo về sống dưới ấy, ở đây không khá nổi.
Tuấn ngạc nhiên bảo.
-Tôi cũng đoán anh chị sẽ dọn đi nhưng sao đi nhanh thế, ăn Tết xong cái đã, làm gì mà vội thế"
-Tết nhất cũng như ngày thường chứ có khác gì, đã chuẩn bị sẵn hết rồi.
Danh thấy bạn vào vội ngồi gượng dậy, chàng ta mệt mỏi thở dài xin lỗi lu bu quá không báo tin cho anh được, ngày mai chúng tôi đi rồi, anh ta thẫn thờ, mệt mỏi, chán chường. Câu chuyện buồn rầu tẻ nhạt, Tuấn chẳng muốn nói gì thêm chỉ hỏi bâng quơ mấy câu cho có lệ, chàng nghĩ mình với họ sẽ chẳng có ngày gặp lại.
Hiền ra tiếp chuyện thay chồng đi nằm nghỉ, chị than thở cuộc đời bạc bẽo nay đành lòng về quê. Tuấn chẳng biết nói sao hơn chỉ ừ hữ cho qua chuyện, nhìn vẻ mặt bơ phờ, nếp nhăn trên trán chị ta chàng cũng thấy rõ những khó khăn chồng chất của cuộc đời đã đè nặng trên vai gia đình họ thế nào rồi. Chàng nhìn quanh thấy đồ đạc cũng chẳng có bao nhiêu, vài ba cái bị, cái túi này cũng đủ cho cuộc hành trình. Tuấn thở dài não nuột xin phép ra về, Hiền và người con lớn ra cửa cám ơn đã đến thăm, chàng dắt xe đạp đi về , mẹ con chị nhìn theo vẫy tay chào. Tuấn ứa nước mắt trước cảnh biệt ly người đi kẻ ở, biết bao giờ mới được gặp lại nhau.
Tiếng pháo đì đùng đón xuân nổ quanh đây, người ta cũng chuẩn bị đón xuân, một cái Tết nghèo nàn đói khổ như mọi năm, niềm thương xót bạn dào dạt nổi lên trong lòng chàng. Tuấn nghĩ ngày xưa anh chị khá giả nay lâm vào hoàn cảnh cùng túng, thật tội nghiệp nhưng biết sao giờ. Chàng tự trách mình chẳng giúp gì được họ, chỉ thương môi thương miệng chứ làm gì bây giờ, chàng lại tự bào chữa, mình phải lo gia đình nhà mình, ai cũng khó khăn cả, mỗi người một hoàn cảnh.
Tuấn về nhà kể lại cho vợ nghe rồi than cho số phận hẩm hiu của gia đình bạn, cuộc đời họ sao mà khổ đến thế, khi ấy Liên đang lui khui chuẩn bị cúng ông Táo về trời không tỏ vẻ xúc động gì lắm.
-Khổ thì ai chẳng khổ, mình có hơn gì họ đâu, mình cũng đâu có giúp gì người ta được.
Tuấn hiểu ý vợ không nói gì thêm. Những ngày đón xuân nghèo nàn đạm bạc, Tuấn cũng đi mua hoa cúc vạn thọ cho qua mấy ngày Xuân , rồi Tết cũng vừa tới, Tuấn chúc Tết, nhưng tiếng pháo nổ, tiếng trẻ nít vui đùa cũng không làm chàng khuây nỗi sầu ly biệt hôm nào.
Cuộc sống vẫn bế tắc, gia đình Tuấn chỉ trông vào tiền ngoại viện chẳng biết làm gì hơn, vợ chàng cũng xin làm thợ may tại một công ty cho có hình thức để phường khóm không để ý. Họ đã bắt đầu thấy loé lên vài tia hy vọng khi được biết gia đình ông anh họ đã được cấp xuất cảnh, độ năm sáu tháng nữa là đi được. Liên có nhờ người lo lót nhiều tiền, gần một "cây" vàng rồi, thỉnh thoảng vẫn phải nhắc, họ hứa thế nào cũng có xuất cảnh sớm, phải để họ thu xếp.
Trọng Đạt