GIẢI THƯỞNG VIẾT VỀ NƯỚC MỸ VÀ TÔI
Tác giả: Thụy Nhã
Bài số 2504-16208581 vb711009
Thụy Nhã, tác giả viết về nước Mỹ ngay từ năm đầu tiên và đã nhận giải chung kết Viết Về Nước Mỹ 2008 với bài “Chuyện Của Cây Vông”. Sinh năm 1980, định cư tại Mỹ khi 15 tuổi, năm 23 tuổi, xong bằng 4 năm về ngành tâm lý học tại đại học Utah, tiếp tục học ngành y tá. Ra trường, sau ba năm hành nghề y tá ở San Francisco, hiện đang trở lại trường học để lấy bằng thạc sĩ chuyên ngành gây mê (Certified Registed Nurse Anesthetist -CRNA) Bài sau đây trích từ báo xuân Việt Báo Tết Kỷ Sửu 2009. hiện đang được phát hành khắp nơi.
***
Tôi đã lớn lên cùng với giải thưởng Viết Về Nước Mỹ. Năm mười chín, hai mươi khi Việt Báo mở cuộc thi năm đầu tiên, tôi viết thư tìm anh trai gửi cho tòa soạn, tựa đề để cụt ngủn: "Anh Ơi Hãy Trở Về". Tòa soạn đọc và thêm vô ba chữ "Thư Em Gái" để lỡ có anh nào đọc thì không hiểu lầm tôi đang năn nỉ người yêu quay về. Gửi bài đi rồi tôi nôn nao vô cùng, ngày nào cũng vào website của Việt Báo để đọc bài mới và chờ coi kết quả. Kết quả năm đầu được thông báo tôi còn nhớ có tên của cô Ông Thụy Như Ngọc, người viết “Giàn Thanh Long Trên Đất Khách” và “Công Dân Thế Giới”. Tôi đã đọc bài của Ông Thụy Như Ngọc một cách say mê và khâm phục tác giả. Cùng lứa tuổi, cùng ngành học với tôi mà sao tầm nhìn của cô rộng hơn tôi rất nhiều.
Năm đầu dự thi, mộng cao như núi. Khi mộng không thành, tôi bèn lơ luôn giải thưởng. Đến năm 2001, biến cố 911 xảy ra khi tôi đang ngồi ở nhà chờ tới giờ đi học, một người bạn gọi điện thoại kêu tôi mở TV ra coi. Tôi mở TV và thấy cảnh người nhảy ra từ các tầng lầu, tan xác, thấy cảnh khói bốc rồi tòa nhà vỡ làm đôi, tim tôi nhói đau. Chiều hôm đó tôi vào học trong lớp sociology, thầy giáo mở đề tài về khủng bố và hỏi các thành viên trong lớp về biện pháp ngăn ngừa khủng bố. Phần đông các bạn trong lớp nhất là các bạn trai đồng ý với tổng thống Bush dùng biện pháp mạnh có thể là chiến tranh để tấn công khủng bố, riêng có cô bạn không đồng ý, cô nói nếu ông Bush dùng bạo lực không biết tương lai của nước Mỹ sẽ về đâu. Các bạn trai nghe cô nói xong liền giận dữ trả lời chẳng lẽ bọn khủng bố giết người như vậy mình phải nhượng bộ chúng sao. Cô gái nghe xong khóc và bước ra khỏi lớp. Tôi rời lớp học hôm đó với một tâm trạng hoang mang nhưng tôi nhận ra một điều thật rõ ràng: tôi là một công dân Mỹ và tôi đang đau những nỗi đau mà nước Mỹ và công dân Mỹ gánh chịu.
Nhờ biến cố 911 tôi có được Mắt Nâu, một câu chuyện hoàn toàn dựa trên sự tưởng tượng. Năm đó tôi chưa bao giờ được tới New York và không hề biết dòng sông Hudson ở đâu nhưng khi muốn cho cặp tình nhân được dạo bên một dòng sông, tôi bèn search tên một dòng sông ở New York, bắt gặp tên Hudson nghe hay hay, tôi bỏ vô đại. Tòa soạn biết truyện Mắt Nâu xạo ke nhưng vẫn cho đăng vì thấy tội nghiệp một mầm non đang mọc. Kết thúc truyện tôi nhớ đã cho cô gái chết với cặp mắt nâu trợn trừng nhưng tòa soạn thấy cải lương quá nên cắt cái rụp và cho cô gái mắt nâu được sống tiếp.
Nối tiếp Mắt Nâu tôi viết thêm vài truyện về gia đình nhưng truyện nào cũng phải dấu vì nếu ông bu bà bu biết sẽ cạo đầu tôi trọc lóc. Trong những truyện viết về gia đình tôi thích nhất Im Đi Bà Ơi vì trong đó có đoạn bà đưa ra tờ giấy ly dị đòi ông ký, ông bảo rằng: "cất đi để dành đốt nhang". Câu nói này tôi cất lại để mai mốt dạy cho người của tương lai. Tôi mong muốn sau này nếu có sóng gió xảy ra chúng tôi sẽ cùng nhau đốt nhang chứ không đốt... nhà.
Sau đó tôi viết "Check Point, Những Ngày..." để kể lại công việc làm security của tôi tại phi trường quốc tế của thành phố Salt Lake. Khi nghe tôi kể đã từng làm nhân viên an ninh phi trường ai cũng cười vì tôi nhỏ xíu ngay cả tự vệ còn chưa xong huống gì có thể làm nhân viên an ninh. Nhưng những ngày làm tại sân bay đã dạy cho tôi một bài học: sức mạnh không thuộc về số đông, không thuộc về những kẻ to lớn và có võ trang đầy đủ nhưng sức mạnh thuộc về công lý và chính nghĩa. Tôi nhớ để kết thúc bài viết tôi đã nói: "Em bé đi hài đỏ không thể chết, chú bé vừa chào đời không thể chết, bà mẹ trẻ không thể chết, ông lão, bà lão không thể chết. Họ phải sống, phải đi, và phải đến được nơi họ cần đến."
Năm 22 tuổi, với bài "Check Point, Những Ngày..." và "Cha Bố Mày Con Vàng" bài viết kể về những kỷ niệm của tôi và bà nội, tôi thật vinh dự khi được Việt Báo trao cho giải thưởng mà chú Bồ Tùng Ma tác giả của "Ông Ba Đau Khổ" ưu ái gọi là giải "á hậu". Hôm trao giải, "hoa hậu" là chị Nguyễn Hà, tác giả của "Có Phải Tàn Tật Là Tàn Đời" đã không đến được vì chị đã bị thương rất nặng trong một tai nạn xe hơi. Buổi tối hôm đó tôi thật hãnh diện khi được đứng cạnh "Ông Ba Đau Khổ" và nhiều năm sau tôi thật không ngờ lại được vinh dự đứng cạnh chú Bồ Tùng Ma trên sân khấu thêm một lần nữa.
Năm 2001, 2002 qua đi, tôi ngưng viết năm năm để chuẩn bị cho mình thành một người mạnh mẽ hơn và chín chắn hơn như lời tòa soạn nhận xét. Trong năm năm tuy không viết nhưng tôi đã gắn bó với giải thưởng hơn lúc nào. Mặc dù không có bài dự thi nhưng năm nào tôi cũng bay về quận Cam vào ngày trao giải để được gặp các tác giả của Viết Về Nước Mỹ và gặp các anh chị trong tòa báo. Tôi được biết thêm cô Hiền Vy với bài "Thằng Ròm", biết được cô Iris Đinh với cái áo dài miền Nam lộng lẫy và bài "Cái Chăn Bông Và Người Con Gái Họ Đinh", chú Hưởng và "Giọt Nước Mắt", sau này tôi được biết chú Nguyễn Duy An với "Từ Bình Giả Tới Hoa Thịnh Đốn", chị Anne Khánh Vân với "Duyên Nợ Với Nước Mỹ", chú Trần Nguyên Đán với "Thu Hát Cho Người" và nhiều tác giả khác. Danh sách tác phẩm và tác giả của Viết Về Nước Mỹ thật dài, tôi không thể nào kể hết được, nhưng xin cho tôi được nhắc về cô Trương Ngọc Bảo Xuân, và chú Bồ Tùng Ma. Đối với tôi hai cô chú là hai cây cột vững chắc nhất của giải thưởng với những bài viết ảnh hưởng tới nhiều người và nhiều thế hệ. Ai có biết về giải thưởng Viết Về Nước Mỹ đều biết đến cô Trương Ngọc Bảo Xuân và chú Bồ Tùng Ma. Riêng tôi thật tự hào được làm độc giả trung thành của hai tác giả này trong nhiều năm trời.
2006, tôi rời Salt Lake City và qua San Francisco lập nghiệp. San Francisco đối với tôi cũng xa lạ như New York vì tôi chưa bao giờ được tới đây ngoại trừ có ghé ngang hai tiếng để dự buổi phỏng vấn tại bệnh viện UCSF. Từ nhỏ đến lớn tôi chưa bao giờ xa gia đình nhưng trong tôi luôn có một dòng máu thích phiêu lưu mạo hiểm nên tôi đã quyết định chọn S.F làm nơi dừng chân mặc dù ở nơi đây tôi không hề có thân nhân hay bạn bè. Từ Utah, tôi tìm nhà trọ trên Craigslist, tôi nói chuyện với người chủ nhà trên điện thoại hai lần và quyết định mướn phòng mà không cần bay qua coi nhà trọ ra sao. Hôm đầu tiên tới nhận phòng, tôi gọi về trầm trồ với má phía sau phòng có cái cầu thang để coi skylight, ai ngờ sau này tôi mới biết đó là fire exit chứ làm gì có skylight để mà coi. Nhận nhà hôm trước, hôm sau tôi đi làm. Không biết bạn có nhận ra được sự hồi hộp của tôi không khi đây là lần đầu tiên tôi xa nhà, lần đầu tiên tôi ở trọ, lần đầu tiên tôi ở một thành phố lớn, đi làm ở bệnh viện mới và đó là lần đầu tôi đi public bus. Tối hôm trước ông chủ nhà trọ đã dẫn tôi đến trạm xe bus chỉ rõ ràng đường đi lối về nhưng khi trở về nhà từ bệnh viện tôi đã đi lạc vì không biết đâu là Inbound, đâu là Outbound. Tôi ngố đến nỗi khi có một cô bạn mới quen trong nhóm training dạy phải đi Safeway để mua bus pass, tôi đã hỏi Safeway là cái gì. Trong thời gian sống ở S.F tôi đã sống đúng với tinh thần người Mỹ, work hard-play hard. Tôi làm việc thật nhiều nhưng cũng đi chơi thật nhiều. Khi còn ở Salt Lake với má, điều mà tôi sợ nhất là tôi sẽ không bao giờ có thể sống tự lập nhưng khi qua S.F rồi tôi mới biết tôi có thể sống và tự lo cho chính mình.
Năm 2008 tôi rời S.F để về lại nhà bắt đầu một công việc mới. Tôi tới SF một thân một mình năm 2006 nhưng khi lìa xa S.F, tôi thấy như đã phải lìa xa gia đình của mình. Gia đình của tôi ở SF là gia đình người chủ nhà mà tôi đã sống chung trong suốt thời gian tôi ở đây, những bạn bè tôi quen biết tại bệnh viện và các tác giả của giải thưởng Viết Về Nước Mỹ sống tại miền Bắc California, những người mà sau này trong tinh thần bạn đọc và bạn viết tôi đã được vinh dự gọi là bạn. Trong hai năm sống tại đây tôi đã được biết và được gần gũi với cô Iris Đinh và cô Mão Nguyễn. Tôi không quên được bữa cơm canh rau đay và cà chấm mắm tôm cô Iris đãi. Tôi không quên được hôm đau nằm bẹp trên giường cô Mão tới lôi tôi dậy và chở tôi đi ăn ở phố Nhật. Vài ngày trước lúc tôi rời SF, cô Mão sáng sớm mang qua cho tôi một cái vali thật bự, tôi đã chụp hình cái vali tại phi trường San Jose để làm kỷ niệm. Và trước lúc ra sân bay, cô Iris đã đãi tôi và anh trai một chầu bún riêu có đầy đủ gia vị và có cả hoa chuối, rau muống bào. Những tình cảm đó đối với tôi là những tình cảm của những thành viên trong gia đình dành cho nhau. Tôi biết mình thật may mắn khi có được tình thương vô giá đó.
2007, tôi viết "Chuyện Của Cây Vông" vì tôi cảm thấy tôi và những người cùng thế hệ của mình là những gốc cây bị bứng ra khỏi đất. Có những gốc cây bị dục, bị vất đi, có những gốc cây được trồng và vun bón lại, nhưng bằng cách này hay cách khác chúng tôi đều bén rễ vào mảnh đất mới và sau đó đâm chồi, nảy lộc và nở hoa. Trong năm này tôi đã được gặp và ngưỡng mộ chị Thanh Mai với "Ép Con Học Hành Quá Sức", chị Nguyễn Trần Phương Dung với "Cảm ơn Em, Cảm Ơn Peace Corps", Kim Trần với "Người Yêu Tôi, Một Con Nghiện", chú Nguyễn Thế Thăng với "Mỹ Việt Gốc Mỹ" và các tác giả khác của năm 2008. Đặc biệt tôi đã được ôm chị Thùy Dương, tác giả của truyện ngắn "Đoàn Nữ Binh Của Mẹ Tôi" mà tôi rất thích.
Tôi đã viết lại "Chuyện Của Cây Vông" như một đoạn hồi ký của tôi và gia đình trong những ngày tháng gian khổ. Thật không ngờ đoạn hồi ký này đã được ban giám khảo tuyển chọn và trao cho giải thưởng cao quí "Tác Giả Và Tác Phẩm". Hôm đứng trên sân khấu Rose Garden khi được chú Nguyễn Xuân Nghĩa cho nói vài câu, tôi run quá không biết nói gì, nhưng hên nhờ nhớ được một đoạn cuối trong câu chuyện, tôi đã đọc lại thay cho lời phát biểu, vừa đọc vừa muốn khóc vì quá xúc động. Cho tới hôm nay tôi vẫn không tin là chính tôi đã được vinh dự ngày hôm đó.
Câu chuyện của cây vông mở ra lúc tôi còn là con nhóc tỳ chạy loạn trong xóm của người dân tộc thiểu số để đùa chơi và được kết thúc bằng mộng ước của tôi trong tương lai. Tôi đã nhắc tới nguyện vọng được theo đuổi ngành y tá chuyên khoa gây mê mặc dù những đòi hỏi của ngành này rất gắt gao. Và vì mong ước đó tôi đã dọn từ San Francisco về lại Salt Lake City mặc dù lúc đó công việc ở SF của tôi tương đối nhàn và lương dành cho y tá ở SF có thể nói là cao nhất nước Mỹ trong khi đó công việc ở Salt Lake lương thấp nhưng lại rất khó và gian khổ. Trong tháng 9 của năm 2008, unit mà tôi làm có 12 giường thôi nhưng số tử vong trong tháng đó đã lên tới 30 người.
Thụy Nhã