Lê Như Đức là tác giả có bài viết được giải chính thức sơ kết Viết Về Nước Mỹ năm đầu tiên. Mỗi bài viết của ông đều thể hiện sự tinh tế và tấm lòng. Ông Đức sinh năm 1962 tại Saìgòn, Việt Nam. Nghềp Nghiệp: Kỹ sư cơ khí cho Boeing, Houston. Gia Đình: Vợ và ba con, hai gái một trai.
Tôi biết anh là vì gia đình anh là gia đình Việt-nam duy nhất ở chung Apartement với chúng tôi. Tuy bận rộn tối ngày, nhưng chiều nào đi làm về anh cũng đều ghé chỗ chúng tôi đấu láo dăm vài câu rồi mới về nhà. Anh có bệnh nghiền hút thuốc lá và nghiền nói. Đặc biệt mỗi lần mở miệng là phải có tiếng đệm chửi thề. Nhiều khi không biết nói gì, anh cũng mở miệng nói văng tục mấy chữ cho đã miệng. Công, người bạn sống chung với tôi, một lần tỏ ý khó chịu vì cái tính xấu này của anh, đã phải lên tiếng:
- Anh Thắng bớt chửi thề dùm được không" Tôi nghe không xuôi chút nào cả"
Anh không những không đỏ mặt mà còn tỉnh queo trả lời:
- ĐM, nói chuyện không chửi thề nói không sướng. Mày nghe không xuôi tao nói hoài riết cũng phải xuôi. Phải không Hán Không Dê"
Hán nhìn anh cười trừ, chứ không trả lời. Bạn bè trong trường thường gọi Hán là Hán Không Dê (g), gọi Công là Công Tử, và chúng tôi gọi anh là anh Thắng Củi. Cái tên Thắng Củi là do Công Tử đặt tặng anh là vì da anh đen như cột nhà cháy. Nhưng anh lại diễn giải theo sự hiểu biết đơn giản của mình:
- Nó sỏ lá tao đó. Nó sỏ lá số một khu này, mày biết hông" Nó biết tao làm nghề trồng cây cho trường, chân dính sình nên thúi cẳng nói lái là Thắng Củi.
Công Tử hình như rất rành về cái tính tình bộc trực của anh nên dễ dãi mỉm cười:
- Khu này chỉ có bốn người Việt. Anh và ba chúng tôi. Tôi sỏ lá nhất, thì anh cũng đứng thứ hai, thứ ba. Có thua gì đâu. Phải không anh Thắng Củi"
Anh ú ớ, chửi thề dăm ba câu rồi đi về nhà.
Anh người tầm thước, khuôn mặt xương xẩu với vầng trán thấp nhưng lại rộng. Da anh ngâm đen có lẽ vì dầm mưa dãi nắng từ thuở nhỏ. Người anh nẩy nở, bắp thịt rắn chắc, tay chân lại hơi ngắn. Anh không biết đọc cả tiếng Mỹ lẫn tiếng mẹ đẻ. Anh chửi thề tiếng Việt rất nhuyễn, nói tiếng Anh rất tầm bậy. Vậy mà anh lại có vợ ngoại quốc.
Cả cuộc đời lẫn cuộc tình của anh thật là ly kỳ và nhiều máu đổ. Anh người miệt Hậu-giang, chuyên nghề chài tôm, tép, ốc, và cá vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nói chung, anh chài đủ mọi thứ, không chừa thứ gì kể cả cá sấu, theo lời anh kể. Anh có vợ rất sớm, từ hồi chưa biết... chửi thề.
Ngày nước mất, anh đã được hai trai và một gái. Những người anh vợ của anh lại vào bưng theo tiếng gọi ngây thơ của Tướng Trần-văn-Trà thuộc Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, do dó gia đình anh tự nhiên trở thành có công lớn với cách mạng. Để trở thành gia đình gương mẫu cho hàng xóm láng giềng, anh và chị phải liên tục tham gia học tập và hội họp. Hết họp phường, lại họp tổ. Tổ chài tôm rồi lại tổ dân phố.
Một lần họp, vô tình ngứa miệng anh có hỏi thế nào là Chủ Nghĩa Xã Hội và thế nào là Xã Hội Chủ Nghĩa. Tên ủy viên chính trị như vặn trúng đài, hùng hồn giảng giải liên tục ba tiếng đồng hồ hơn. Nào là học thuyết Các-Mác, nào là tinh thần Xì-Ta-Lin-Nít, nào là chủ nghĩa "Mác-Xít Lê-Nin-Nít".
Thằng con út anh cũng bị ngồi học tập lâu nên hâm đít khóc to. Anh vừa xoa mông nó, vừa lẩm bẩm lặp lại ba cái tiếng Nga dài dòng bí hiểm nói về một chủ thuyết thật lạ kỳ, khó hiểu: "Móc Đít Đưa Lên Hít."
Vài tháng sau, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam bị sa thải sau một lời mỉa mai công bố thống nhất đất nước. Gia đình anh lại may mắn trở thành vô duyên với cách mạng. Từ dạo ít đi họp tổ, chị hay càu nhàu, giận hờn. Năm sau, sau một lần cãi nhau với chị, anh bực mình mang thằng út bỏ lên chiếc ghe đuôi tôm dài hơn mười thước của anh, phóng qua sông đậu bên bờ bãi sậy đối diện, tìm một sự lắng động trong tâm hồn.
Rủi cho anh, chiều đó bãi sậy lại là chỗ đổ bộ của những người vượt biên. Hai chiếc ghe đuôi tôm taxi cập vào bãi, đón người chở ra ghe lớn đậu ngoài khơi. Lúc đổ bộ hỗn độn, nhiều người nhẩy lộn vào ghe anh. Đang lúc anh đứng "thanh minh thanh nga" thì bộ đội công an biên phòng ùa tới. Sợ hiểu lầm anh mở máy, rồ ga theo ghe taxi, phóng ra cửa biển.
Sau khi vô tình làm "nghĩa vụ quốc tế" chở người vượt biên lên ghe lớn, anh quay ghe tính vòng về. Nào ngờ biển Đông tối đó lại mưa lớn, động mạnh, thổi ghe anh xa bờ hơn, tới hải phận quốc tế. Sáng hôm sau tầu hàng Na-Uy đi ngang, thấy ghe anh ít người, mừng...dớt đẹp. Anh lên tầu, gặp thuyền trưởng hỏi, anh khiêm nhượng chỉ đáp ba lần hai chữ "Việt-nam, Việt-nam, Việt-nam." Người thuyền trưởng nhân hậu chở cả cha con anh lẫn ghe anh tới tận Tân-gia-ba.
Sau khi cha con anh kiên nhẫn đứng cười mếu, chụp hình với tất cả mọi thủy thủ trên tầu, họ hùn tiền để đền công đứng chụp hình, biếu anh hơn ngàn đô. Được tiền, anh lên Cao Ủy Liên-Hiệp-Quốc cầu cứu xin hồi hương. Người thông dịch lịch duyệt vừa thông dịch, vừa kể anh nghe chuyện một chiếc tầu Việt-nam Thương-Tín. Anh hồi hộp xin rút đơn vì sợ về học tập cải tạo. Cải tạo anh không sợ, nhưng nghe hai chữ học tập anh rất ớn vì vốn không ưa họp từ dạo thấy những cán ngố xuất hiện nơi xóm chài của anh.
Rồi cha con anh cũng tới Mỹ. Anh được một người Mỹ ít tốt bụng ở tiểu bang Nebraska bảo lãnh. Hắn cung cấp cha con anh thật đầy đủ: chỗ ở tạm, quần áo cũ và việc làm không đòi hỏi nhiều sinh ngữ. Anh đứng lau, rửa xe trong cây xăng của hắn...free. Cha con anh ăn, ngủ, và làm tại garage sửa xe gần ba năm.
Một hôm, tên chủ thấy thằng con lên chín của anh có vẻ đã lớn nên bắt ra chùi xe, thay vì ngồi trong nhà coi phim cartoon. Anh tức mình, tối hôm đó dọn hết đồ lên một chiếc xe truck tốt nhất, đổ đầy cả hai bình xăng chính lẫn phụ, rồi cùng thằng út ra đi không từ giã.
Dọc theo quốc lộ 45, anh cứ lần về hướng nam mà phóng. Anh muốn xuống Houston vì nghe đồn nơi đó nghề chài của anh rất thịnh. Vào đến Dallas, đường phố quá chằng chịt, anh lạc lối, đổi hướng, bang sang Fort Worth, qua Waco rồi tới College Station.
Định mệnh đã đưa đẩy cho anh gặp Công Tử ở một tiệm ăn fast food McDonald. Thấy cha con anh ú ớ không biết mua loại Hamburger nào, Công Tử đứng sau thông dịch dùm. Sau khi nghe anh kể chuyện quá khứ tỵ nạn, Công Tử dở khóc dở cười không biết quyết định ra sao nên cho cha con anh về trú tạm chỗ mình.
Hôm sau, Công Tử vào trường hỏi ý kiến ông thầy cố vấn. Thương trò và thương người gặp cảnh lầm than, ông thầy đưa sự việc lên hội đồng trường. Hội đồng trường đẩy qua văn phòng Luật sư riêng của trường. Tên chủ Mỹ ở tiểu bang Nebraska nghe Luật sư dọa, sợ hãi nên đồng ý bồi thường, biếu không anh chiếc xe truck và sáu ngàn đô.
Nội vụ kết thúc, anh ra riêng, mướn phòng ở đối diện với phòng Công Tử và Hán. Tuần lễ sau anh nhận việc mới, trồng hoa và cây cho trường. Năm sau tôi vào trường trọ chung với Công Tử nên gặp cha con anh.
Định mệnh đã đưa năm người Việt tha hương chúng tôi gặp nhau trong một chung cư cổ của một thành phố nhỏ, hiền hòa, thuộc tiểu bang Texas.
Cuối dãy phòng anh ở, có một thiếu phụ Mỹ, gốc Đan-Mạch cũng cùng cảnh ngộ như anh, sống đơn chiếc với một con. Tên nàng là Helen. Helen có dòng máu pha của những tên hải tặc Vikings miền Bắc Âu nên xương to và người cao lớn. Mái tóc vàng óng, làn da hơi ăn nắng làm Helen trông mạnh khoẻ và đa tình.
Người chồng cũ của Helen là một Luật sư gốc Ý rất giầu có và nổi tiếng là lưu manh ở Nữu-Ước. Y ăn nói bặt thiệp, đường mật nhưng vẫn thường hay đấu...boxing với nàng. Nhiều lúc đi party cuối tuần, Helen phải thoa phấn thật dầy để che đậy những vết thương bầm tím nơi mặt. Xã hội Mỹ, vào cuối thập niên 70, chưa ai để ý nhiều về chuyện đấm đá trong phòng the nên Helen vẫn phải thường thượng đài đấu quyền anh với anh chồng vũ phu nặng hơn hai trăm hai mươi lăm cân anh của mình. Chịu đựng được cũng gần ba năm, Helen phải ôm đứa con trai duy nhất và bốn con mèo tam thể chạy bỏ của giữ lấy thân khỏi nhà chồng.
Cũng như anh Thắng Củi, Helen cứ hướng Nam mà phóng. Nàng muốn xuống Austin, thủ phủ của Texas, để tá túc nơi gia đình cô em gái. Nhưng xe nàng chỉ chạy nổi tới College Station thì banh. Thấy thành phố nhỏ, dân tình hiền hòa, nàng dừng bước xin nhận nơi này làm quê hương dẫu cho sống có cô đơn.
Một hôm đi làm về, anh Thắng thấy Helen đang tìm cách mang con mèo của nàng kẹt trên cây tùng cao mọc sát nhà xuống. Anh chạy vội vào phòng khiêng cái thang nhôm ra giúp Helen. Helen hôm đó mặc cái váy trắng ngà, dài chỉ tới đầu gối. Anh Thắng đứng dưới giữ thang để Helen leo lên bắt mèo. Helen tay giữ thang, tay giữ váy chậm chạp trèo lên. Con mèo quái quỷ, quào ngược vào tay Helen làm nàng giựt mình, hụt chân té khỏi thang.
Anh Thắng vừa hút thuốc vừa kể lại chuyện cũ:
- Tự dưng tao thấy trời đất tối thui hà. Tưởng nhật thực. Nhè ra nguyên cái váy nó chùm lên đầu tao. Nó nặng thấy ông cố nội tao luôn. Tao chịu hết nổi té xuống, đầu đụng vào cục gạch vách nhà. Tao vội bò dậy, thấy váy nó đỏ lòm, tưởng hôm đó là ngày của nó. Thấy đầu đau, tao rờ mới hay máu mình chứ không phải máu nó.
Mặc dù nghe lại nhiều lần, chúng tôi cũng không thể nhịn được cười. Hán hỏi lại anh:
- Vậy chứ sao anh Thắng không leo lên bắt mèo dùm em mà lại đứng dưới há họng nhìn lên"
Anh cười cười đáp:
- Ngu sao mày. Mà sao mày biết tao há họng nhìn lên hay dzậy"
Ngày cuối tuần, anh cùng con diện đồ thật láng, qua phòng Helen rủ nàng và con nàng đi date. Sợ Helen quên mất mình, anh vác cả cái thang nhôm theo cho chắc ăn. Từ cổ chí kim, tôi chắc anh là người duy nhất vác thang tới nhà, rủ em đi chơi.
Cuối tháng đó, anh nhờ Công Tử xin với Apartement cho anh chuyển phòng qua sát phòng Helen để impress nàng. Một cuối tuần, Helen và con xuống Austin thăm gia đình cô em, anh ở nhà phá thủng vách, mở một lối đi thông thương giữa hai phòng khách của hai nhà để nối tình hữu nghị Việt-Mỹ. Anh rất khéo tay lại nhanh nhẹ nên hai cái phòng khách trông như một. Khi trở về, Helen nhìn cái lối đi không nói gì, chỉ chúm chím cười.
Tháng sau, Helen báo tin mừng có thai. Anh chạy vội qua Công Tử nhờ tổ chức đám cưới.
Đám cưới anh cũng thật đơn giản như con người anh. Bên đàng trai chỉ có ba sinh viên chúng tôi và thằng cu con anh. Thằng cu năm đó đã lên mười mà vẫn chưa được có tên Mỹ lẫn tên Việt. Công Tử thường gọi nó là Dick. Lâu ngày trở thành tên thiệt. Đàng gái vỏn vẹn vợ chồng em gái Helen từ Austin xuống dự và Timmy con nàng. Công Tử là phụ rể, em gái Helen là phụ dâu. Chồng nàng và Hán là witness. Tôi giữ chân tài xế. Quan khách gồm hai đứa bé : Dick và Timmy.
Trước khi bước lên xe...bông tới nhà thờ làm lễ cưới, anh dặn riêng Công Tử:
- ĐM, mày nhớ nhắc tao khi nào trả lời ông cha "Yét sờ, ai đù" (Yes, I do) nghe mày.
Công Tử gật đầu, dặn anh lại:
- Nhớ rồi. Còn anh vào nhà thờ làm lễ, làm ơn đừng sổ tiếng nho nữa được không"
Houston, ngày 17/12/2002
Thân tặng anh Thắng và gia đình.
Viết ngày con trai, Lê Đình Tuấn Khoa, chào đời
Lê Như Đức