Ông Huỳnh Tấn Lực sinh ngày 26-03-1954 tại làng Mỹ Khê, Phường Phước Mỹ, Quận Sơn Trà, Thành phố Đà Nẵng, hiện cư trú tại Oakland, CA . Nghề nghiệp: đang làm là Thông Dịch Viên - Phiên Dịch Viên Y Khoa cấp III cho Trung Tâm Y Tế Quận Hạt Alameda, Bắc California và Nhiếp Ảnh Gia Digital. Đã phát hành thi tập “Quê Hương - Người Tình - Ước Mơ” năm 1993. Sau đây là bài Viết Về Nước Mỹ đầu tiên của ông.
+
Cũng giống như bao nhiêu người Việt khác, tôi đành bỏ nước ra đi tìm Tự Do tại Mỹ lúc bảy giờ tối ngày11 tháng 01 năm 1980, tìm sự sống trong cái chết sau năm lần vượt biển.
Thuyền nổi trôi, sáu ngày chạy lạc hướng, bồng bềnh vô định trên mặt đại dương sóng dữ, bao la, lương thực, nhiên liệu đều khô cạn, tuyệt vọng. Tôi đề nghị mọi người nên cầu nguyện tùy theo tôn giáo riêng của mình. Bỗng nhiên, như một phép lạ nhiệm màu, lúc đó trời vừa hừng sáng, nhìn xa xa tận chân trời có những ánh đèn nhấp nhô trên sóng. Mọi người mừng rỡ la lên, "Chúng ta sống lại rồi, sống lại rồi."
Ông thuyền trưởng vội vã cho thuyền chạy về hướng có ánh đèn, đến gần chúng tôi nhận ra đó là chiếc tàu lớn hiệu Mobile có lá cờ Mỹ và Trung Quốc đang khảo sát mỏ dầu ngoài biển khơi. Họ tiếp cứu nhiên liệu, lương thực và hướng dẫn cho thuyền chúng tôi chạy về hướng Hồng Kông.
Thuyền tôi gồm 64 người từ trẻ đến già được may mắn cặp bến Hồng Kông vào lúc nửa khuya12 giờ 30 sáng ngày17 tháng 01 năm 1980. Tạm trú ở trong trại tỵ nạn Kai Tak East, Kowloon, Hồng Kông mười ba tháng, mười bảy ngày vui buồn và suy tư, bao gồm ba tháng học về văn hóa và đời sống Hoa Kỳ.
Tôi đến Mỹ ngày 27 tháng 02 Năm 1981 thuộc chương trình tỵ nạn. Sau hai tháng định cư tại thành phố Seaside thuộc quận hạt Monterey, Califonia. Một hôm nhận được hung tin bằng điện tín từ gia đình ở Việt Nam gởi qua, với nội dung thật xót xa không cầm được nước mắt, lá thư cho biết là người anh bị truy nã nên trốn vào Sài Gòn, và người em trai thì bị bắt vì tội vượt biển, gia đình ly tán, tôi phải nghỉ học toàn thời gian và quyết định đi xuyên bang để tìm kiếm công việc làm tại thành phố Dallas, tiểu bang Texas, thành phố nóng oi bức của những ngày hè năm 1981.
Nhờ một người bạn giới thiệu vào làm thâu ngân viên ở tiệm (seven-eleven) 7/11, làm ca ba từ 11 giờ tối đến 7 giờ sáng, lương được trả vào thời gian đó là $3.50 một giờ.
Sau 5 tuần lễ làm việc bình thường, bỗng một đêm vào lúc 1:30 sáng, tôi đang ngồi một mình trên quầy hàng và chăm chú đọc tờ báo Trắng Đen, tin tức rất nóng hổi với loạt bài tường thuật về ông Võ Đại Tôn từ Úc Châu qua Mỹ vận động người Việt hổ trợ cho côâng cuộc phục quốc của ông, bỗng nhiên có tiếng nói "hey" của một người khách lạ. Tôi ngẩng đầu lên nhìn hắn giống mẫu người thuộc các nước Trung Mỹ như: Guatemala, El Savador, Nicaragua, Costa Rica, Honduras. Hắn chỉa súng thẳng vào tôi với giọng nói ra lệnh bằng tiếng Anh. "Come to the cash register, take all money and give it to me - đến cái máy tính tiền, lấy hết tiền và đưa cho tôi."
Theo phản ứng tự nhiên, tôi giơ hai tay lên trời, bước đi run run và hồi hộp đến sát bên cái máy tính tiền, rồi bấm nút mở cái mâm tiền ra và hốt hết đưa cho nó. Bỏ tiền vào túi xong, nó ra lệnh và nói tiếp "lift the tray so I can see - nhấc cái mâm lên cho tôi nhìn". Vì chưa hiểu ý nghĩa của chữ "tray - cái mâm" vào thời điểm đó, nên tôi bị khựng lại vài giây trong lúc nó vẫn tiếp tục nhìn chăm chú vào chiếc máy tính tiền. May thay lúc đó tôi cũng còn đủ bình tĩnh và nói bằng tiếng Anh với nó rằng "Please don't kill me, I can do anything if you want me to do - Vui lòng đừng bắn tôi, tôi có thể làm bất cứ việc gì ông muốn." Nhờ đọc được ý của tên cướp, nên tôi liền nhấc cái mâm tiền lên cho nó nhìn vào để xem tiền có còn ở dưới đó không. Nó nhìn vào thấy không có tiền nữa, nên ra lệnh tiếp lần cuối. "Don't do anything before I leave, stand still - Trước khi tôi rời nơi này, đứng im." Hắn đi lui từ từ ra cửa tiệm, tay còn chỉa súng về hướng tôi. Ra khỏi cửa hắn đi dọc theo cái hiên, rồi mất hút trong bóng đêm.
Tôi hoàn hồn nhấc điện thoại gọi 911 và báo cáo vụ cướp vừa xảy ra, tả chi tiết về con người của nó cho nhân viên cảnh sát trên điện thoại, và khoảng chừng 7 phút sau có 3 chiếc xe cảnh sát từ ba hướng khác nhau đến tiệm liền, trong đó có một xe cảnh sát bắt một người chở đến cho tôi nhận dạng, nhưng rất tiếc người đó không phải là tên cướp vừa qua nên cảnh sát thả người bị bắt lầm ra.
Như thường lệ công việc hằng ngày là đúng 7 giờ sáng thì đổi ca, khi bà quản lý đến tôi bị bà ta phàn nàn vì không báo cho bà biết liền vụ cướp trong đêm qua, tôi trả lời là thật ra tôi không biết việc báo cáo cho quản lý là bổn phận của tôi. Tổng cộng tiền bị cướp là $47.00 đô la, số tiền bị mất tuy nhỏ nhưng tôi bị một phen hú hồn là chết hụt.
Sau khi tai nạn xảy ra vài ngày, tôi suy nghĩ rồi quyết định báo trước một tháng xin nghỉ việc vì những lý do như: bị khủng hoảng tinh thần, đồng lương không xứng đáng, công việc làm căng thẳng và bị kỳ thị chủng tộc bởi một số khách hàng.
Tôi trở về lại California mùa Thu năm 1981 với cái vốn liếng là chiếc xe đạp mua tại Dallas $146.00 đô la mà tôi yêu thích. Tôi dùng xe đạp làm phương tiện đi học và tập thể dục trong những ngày cuối Thu ở California. Dù mưa hay nắng, tôi vẫn bôn ba với chiếc xe đạp và cái túi (backpack) trên vai đi đến trường và đạp đi vòng quanh trên thành phố biển đong đầy kỷ niệm này.
Ở thành phố Seaside tôi tìm lại được tôi, bên cạnh bạn bè thân quen cùng bà con đồng hương tại đó và đăng ký đi học lại tại trường Monterey Penisular College. Đồng thời cũng từ thành phố này, nó đã cho tôi những ấn tượng thật đẹp khó quên của những tháng ngày đầu mới đến Mỹ định cự Hệ thống xa lộ (freeway) rộng lớn ở San Jose và những cây cầu vĩ đại chằng chịt đủ hướng bên nhau. Hải Học Viện Monterey Aquarium, tấp nập du khách hằng ngày, những cái chợ to lớn, trình bày ngăn nắp và đẹp mắt như Kmar, Lucky, Safeway v.v…...
Mỹ Khê Huỳnh Tấn Lực