Hôm nay,  

Cô Ba Phốp

21/06/202400:00:00(Xem: 2549)

 
Cô BA

 

Đoàn Thị là một cây bút quen thuộc dí dỏm, được độc giả VVNM yêu mến. Tác giả tham gia Viết Về Nước Mỹ từ tháng Ba 2010, khi còn ở Pháp. Họp mặt giải thưởng năm 2011, bà đã bay từ Paris sang California để nhận giải Vinh Danh Tác Giả - thường được gọi đùa là giải Á Hậu. Từ vài năm gần đây, tác giả đã dời sang California an cư cùng gia đình.
 
*
 
Chị Tâm trưởng nhóm Yoga gần bẩy mươi tuổi sở hữu thân hình cao thon săn chắc như người mẫu,  chị nghiện bộ môn này vài thập niên trước lúc chị còn đi làm. Về hưu buồn tay buồn chân, chị rủ vài bạn thân đến nhà chị tập cho vui, tiếng lành vang xa, bây giờ nhóm của chị bành trướng đến mười mấy người, cô Ba là thành viên mới toanh thọ giáo chị.
 
Cô vốn kín tiếng lại là ma mới nên chỉ nghe các chị hóng đủ thứ chuyện trên đời, thỉnh thoảng cô góp một câu giúp vui, tuyệt nhiên cô câm như hến khi có người cao giọng dạy đời hay chê bai ai đó.
 
Ba bà họp lại là cái chợ nhỏ, trên ba bà bốn cô chắc chắn sẽ thành chợ bự chảng như chợ Bến Thành hay như siêu thị bên Mỹ cũng không sai. Ở đâu cũng thế, đông vui, hao và phiền vì chín người mười ý, ai chả thấy mình hay, mình đúng chăm phần chăm, tỷ số ảo đó suýt đụng trần nhà khiến cô Ba chóng mặt.
 
Cô Oanh thật thà ruột để ngoài da nghĩ sao nói vậy nên thỉnh thoảng bị em Liễu sửa lưng. Liễu nhà ta sở hữu thân hình mát mắt, thon gầy ngực mông chuẩn không kém người mẫu, chỉ tội chiều cao chỉ thiếu vài xăntimét để thi hoa hậu. Gần sáu mươi Liễu giữ dáng đưọc như rứa cũng hiếm, lại làm chủ khuôn mặt trái xoan thu hút người đối diện nên nàng tự mãn cũng đành.
 
Biết tính háo thắng của em Liễu nên cô Ba hạn chế giao du với em, thế mà khi biết cô mới sang đây tròn năm em lân la làm thân làm tim cô đập loạn xị khi được em «phỏng vấn». Thắc mắc của em giống y chang những câu hỏi trong đơn đi định cư của NCV (National Center Visa) do con trai cô bảo lãnh, đại khái ngày sinh tháng đẻ, mần nghề gì, chồng con ra sao…
 
Biết Liễu thường tự cao tự đắc với di dân mới toanh như cô nên cô tự động cắt bớt phân nửa lai lịch nghề nghiệp của mình  để em Liễu loại cô ra khỏi tầm nhắm của nàng. Cô khai chữ nghĩa của cô vừa đủ đi làm văn phòng bên trời Âu, lương đủ sống và đi chơi hè.
 
Liễu qua Mỹ lúc trẻ, ly dị chồng không con, thư ký văn phòng luật sư, đương nhiên rành tiếng Anh hơn cô Ba nhiều, lương khá lại không vướng bận nên em dám ăn dám mặc, du lịch tứ tung. Về hưu lương đủ sống, được thuê nhà chính phủ nên em thông thả rong chơi đó đây, dung nhan không tệ, tại em quá tự mãn khiến đàn ông ngại đi cạnh em, nên em đành cam phận hoa chưa có chủ. Liễu thường điền đơn xin trợ cấp, housing… giúp chị em lớn tuổi công dân Mỹ hẳn hoi không rành Anh ngữ, duy chỉ cô Ba chưa hề mở lời nhờ em giúp đỡ, điều đó khiến em suy nghĩ lung tung.  
 
Cô Ba một mẹ một con, thằng nhỏ làm ngành AI (Artificial Intelligence) tại Cali. Cô được con bảo lãnh qua đây, mẹ con sống trong chung cư cô mua cho con mấy năm trước lúc nó nhận việc bên này.
 
Cô Oanh biết rõ gia cảnh của cô Ba, cô thích chị Ba vì chị khiêm tốn dễ gần, trái hẳn em Liễu hay chỉ bảo cô Ba phải học thêm tiếng Anh kẻo ra đường gặp việc không hay mà biết đường xoay trở. Biết Liễu muốn ra tay nghĩa hiệp cứu người bơ vơ mới đến như cô Ba nên cô Oanh xúi cô Ba khai đại lai lịch thật để em Liễu khỏi coi thường.
 
Cuối tuần với sự đồng ý của chị Tâm xếp nhóm Yoga, sau giờ tập cô Ba mời mọi người nán lại dùng bánh ngọt, trái cây nhân ngày cô Ba đến đây tròn một năm. Đợi mọi người cụng ly chúc mừng cô Ba, Liễu nhanh nhẩu mở đầu câu chuyện như ri:
 
- Sau một năm sống trên đất Mỹ chị Ba thấy sao ?
 
Cô Oanh nghĩ cô Ba trúng tủ câu hỏi quá hay nên lên tiếng :
 
- Chị Ba kể đi, bên ni khác bên nớ điều chi? (Mỹ và Âu Châu)
 
Cô Ba từ tốn :
 
- Đáp lời em Liễu và Oanh tôi thành thật khai báo, sau vài thập niên sống bên nớ tôi thật sự luyến tiếc khi xa rời xứ sở từng cưu mang mẹ con tôi. Tôi là nhân viên văn phòng ngành nhập khẩu nên tôi biết tiếng Anh, bây giờ ra đường tôi không sợ bị phú lít bắt (Police) vì tôi nói được tiếng địa phương. Thân phận tỵ nạn của chúng ta không ai giống ai, giúp người mới đến là chuyện đương nhiên nhưng giúp như thế nào mới khó, không khéo mình vô tình làm họ bị tổn thương là xong đời tỵ nạn.
 
Cô Oanh trố mắt nhìn cô Ba một lúc rồi hỏi:
 
- «Xong đời tỵ nạn» là sao chị Ba!
 
Cô Ba cười buồn:
 
- Nghĩa là kẻ đến sau bị dân đến trước dán cho cái «mác » (étiquette) FOB-No English, ý nói họ khó ngoi lên trong xã hội Mỹ, đời tỵ nạn coi như rẽ vào ngõ cụt, trên quần xà lỏn dưới dép lào như thuở chúng ta từ trại tỵ nạn được chính phủ các nước đưa vào đất lành.
 
Tiếng Anh giúp chúng ta tiến xa trong chuyên môn và giao tế, không rành thì làm nghề chân tay như nail, bập bẹ vài câu «hello, goodbye» vẫn giàu sụ, hay chủ quán ăn, nhân viên siêu thị…, biết đâu có ngày họ giàu lên như Chú Hỏa ngày xưa bán ve chai ở Sàigòn đã trở thành triệu phú.
 
Tôi tâm đắc câu «Chiếc áo không làm nên thầy tu», giàu nghèo khác nhau không vì túi tiền mà từ Nhân Cách của chúng ta, bởi đó là thứ vô giá không mua được bằng tiền, dù là rất nhiều tiền. Xin lỗi tôi đã lắm lời, thôi mời chị em thưởng thức cây nhà lá vườn, bánh ngọt tôi tự làm đấy.
 
***
 
Lời cô Ba thầm nhắn nhủ em Liễu từng dán nhãn FOB – No English, (fresh off the boat) cho người VN mới đến Mỹ, bất kể họ đến từ đâu đều bị đóng mộc «công dân hạng hai» (Second-class citizen, Citoyen de seconde zone).
 
Em Liễu cho rằng chỉ công dân xứ Mỹ mới là thành phần tinh hoa hơn bất cứ «ziệt kiều» hải ngoại ngoài xứ Cờ Hoa, dân mới đến bị nàng hạ giá dù họ cũng là dân học thức ở xứ người.
 
Mỹ là nước tiến bộ nhất nhưng vẫn có homeless, người mù chữ, dân lao động như bất cứ nước nào trên thế giới, ở đâu cũng có người giỏi, dở, giàu nghèo sao em Liễu nỡ kỳ thị đồng hương như rứa.
 
Hy vọng em Liễu sẽ ngộ ra chân lý và mở lòng với người mới đến đây. Riêng cô Ba, cô kiệm lời không phải vì cô «nô inlít» mà ngại làm em Liễu bẽ bàng khi biết cô không dốt và dở như em nghĩ.
 
Cảm ơn CÔ BA PHỐP đã giải tỏa nỗi niềm oan khiên lâu nay của đồng hương chân ướt vừa ráo bước vào xứ Mỹ đã bị giáng cấp vô tội vạ xuống hàng «phó thường dân».
  
 Đoàn Thị

Ý kiến bạn đọc
27/06/202421:36:25
Khách
Cảm ơn Tác giả, một bài viết hay.
21/06/202420:47:57
Khách
Cảm ơn bạn Lê Như Đức góp ý đúng lắm.
Chúc bạn cuối tuần vui vẻ.
21/06/202412:40:14
Khách
Hahaha. Cái này gọi là ma cũ ăn hiếp ma mới và ma mới thì tự ti mặc cảm là ta đây không ngây ngô, khờ khạo như ngươi tưởng đâu để mà mặc sức nổ.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 410,324
Cả đám đang tán gẫu cười đùa rôm rả, chợt im bặt khi thấy bóng thằng Edgar đang từ xa xăm xăm đi đến. Nó dẫn một khứa lão mới toanh tới và giới thiệu: - Hey Steven, đây là ông Robert, từ hôm nay ông ấy sẽ nhập với nhóm của anh. Mọi người bắt tay và tự giới thiệu tên mình với ông Robert. Steven cũng bắt tay ông ấy, điều đầu tiên gây ấn tượng nhất là đôi mắt ông Robert sáng quắc, sáng trưng trên gương mặt đen như hắc ín, chưa bao giờ mà Steven thấy một người da đen nào có đôi mắt sáng đến như thế. Cánh mũi thì giống hệt cặp sừng con trâu rừng, đôi chân bước đi hơi khập khiễng. Ông Robert cao hơn Steven cả một cái đầu, tướng tá săn chắc và gọn gàng chứ không ồ ề ục ịch như tụi thằng Kasame, thằng Gred...Ông Robert tiếp xúc với công việc và nhanh chóng tiếp thu, chỉ một buổi là làm thành thạo như mọi người.
Anh Đào Quang Mỹ là nhà giáo, nhà văn và là nhà báo với bút danh Hoài Mỹ, khi viết các bài văn trào phúng anh ký bút hiệu Thạch Thủ. Anh là Chủ Nhiệm báo Bán Nguyệt San Ngàn Thông, ra đời vào thập niên 70 tại miền Nam Việt Nam, phục vụ độc giả thuộc lớp tuổi mới lớn, tuổi học trò. Nhóm chủ trương Bán Nguyệt San Ngàn Thông là các giáo sư trường trung học Nguyễn Bá Tòng, Sài Gòn, gồm những giáo sư, nhà văn, nhà thơ: Quyên Di-Bùi Văn Chúc, Hoài Mỹ-Đào Quang Mỹ, Đình Bảng-Lê Quang Bảng, Thái Bắc-Tăng Vĩnh Lộc, nhạc sĩ Hoàng Quý-Hoàng Kim Quý, nhạc sĩ Dương Đức Nghiêm, họa sĩ ViVi-Võ Hùng Kiệt. Bảo trợ tài chánh cho Bán Nguyệt San Ngàn Thông là giáo sư Đoàn Văn Thơm, trường Nguyễn Bá Tòng.
Alaska nguyên là thuộc địa miền Tây Bắc Bắc Mỹ của Nga. Qua sự đề xuất của Ngoại-trưởng William Seward, ngày 30-3-1867, Thượng Viện Hoa Kỳ đã đồng ý mua lại vùng thuộc địa này từ Đế-quốc Nga chỉ với giá 7,200,000.00 đô la. Quốc kỳ Hoa kỳ nhanh chóng được cắm lên vùng lãnh thổ mới vào ngày 18-10-1867 và qua một vài thay đổi về mặt hành chánh, trước khi đựợc tổ chức thành lãnh thổ vào ngày 11-5-1912. Alaska trở thành Tiểu bang thứ 49 của Hoa kỳ ngày 3-1-1959. Là một trong hai tiểu bang không cùng ranh giới với Hoa kỳ (Hawaii và Alaska), Alaska ở vùng cực Bắc nước Mỹ, phần lớn diện tích bị băng tuyết phủ quanh năm. Với những phong cảnh thiên nhiên đẹp và hùng vĩ, Alaska đã thu hút rất nhiều du khách từ nhiều nước trên thế giới.
“…Người xưa nói ngắn gọn mà ý nghĩa sâu xa, “có phước có phần”? Đứa bé đi chơi về, trao cho bà ngoại miếng bánh, viên kẹo nó đã để dành cho bà ngoại chứ không phải nó không muốn ăn. Một việc nhỏ trong mắt người lớn nhưng là việc lớn đối với trẻ nhỏ luôn thích ăn bánh kẹo. Nếu cha hay mẹ nó mua cho bà ngoại cả hộp bánh, cả túi kẹo bà ngoại thích ăn là chuyện bình thường thì cái bánh, viên kẹo đứa cháu thương, nghĩ đến bà nên đem về là phước phần của bà ngoại. Nếu cho bà ngoại miếng ngọc bằng cái bánh, hay thỏi vàng bằng viên kẹo thì bà ngoại vẫn chọn cái bánh, viên kẹo của cháu bà. Ông bà mình nói là bà ngoại có phước có phần. Phước là có đứa cháu ngoại thảo ăn, thương bà. Phước cũng là “không” có đứa cháu, cha mẹ đã nói là mua cho bà ngoại, nhưng ngồi trong xe nó cứ cố tháo gỡ bao bì cho đã nư…”
Hàng năm, vào khoảng đầu tháng Năm, sau khi tuần lễ biết ơn thầy cô giáo (Teachers’ Appreciation Week) kết thúc, lòng tôi lúc nào cũng nôn nao mong đợi mùa hè. Những ngày cuối của tháng Năm là những ngày để lại trong tôi nhiều cảm xúc nhất. Tôi tạm xa đồng nghiệp, xa học trò, xa trường lớp trong vòng ba tháng. Tôi sẽ nhớ những em học trò chào tôi bằng tiếng Việt mỗi buổi sáng dù các em không nói được tiếng Việt nhiều.
Con người của lão lạ kỳ, gọi như thế nào cho đúng đây? Chung thủy, trung thành, không thay đổi…! Đi vô tiệm ăn nếu thích món nào thì khi trở lại lão ăn hoài món đó. Vô tiệm ăn Thái lão chỉ ăn một món Red Curry. Đến tiệm Cheddar lão chỉ ăn món cá hồi nướng. Vô tiệm Muscat’s Charlie lão chỉ ăn mỗi món cá tuna nướng! Chỉ cần một lần món nào vừa miệng là lão chỉ ăn món đó, không hề thay đổi! Mụ bảo hãy thử món khác nhiều khi ngon hơn thì sao nhưng lão lắc đầu! Lão như vậy nên các tiệm ăn quen mặt, biết ý. Bao giờ cũng vậy, vừa ngồi xuống người hầu bàn sau khi viết xuống món mụ muốn, họ cười toe quay qua lão: - Tôi biết ông muốn món gì rồi! Red Curry phải không? Cá hồi nướng phải không….?
Vào năm 2001, khi tờ nhật báo Việt Báo khởi xướng Viết Về Nước Mỹ, tôi hoàn toàn tán thành với chủ trương của tòa soạn trong việc gìn giữ văn hóa Việt nơi xứ người, và tôi đã bắt đầu tập tành việc viết lách. Viết trước hết là để ủng hộ, sau tham gia ghi lại những câu chuyện, những kinh nghiệm để các con, các cháu, các thế hệ tiếp nối hiểu rõ hơn những gì thế hệ đi trước đã trải qua...
Tôi biết chị Hồng khi chúng tôi còn sinh hoạt trong cộng đồng người Việt vùng Richmond, Virginia. Chị Hồng là thủ quỹ của hội Người Việt Richmond. Mỗi năm vào dịp Tết Nguyên Đán, Hội Người Việt đều in đặc san Xuân, chị thường nhờ tôi viết bài cũng như giúp chị liên lạc với nhà in CT Printing ở Maryland. Ngoài thủ quỹ của Hội Người Việt ra, chị Hồng còn được biết đến với vai trò ca đoàn phó trong Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Tánh tình chị dễ mến, hoạt bát, và hòa đồng. Chị luôn sốt sắng phụng sự trong giáo xứ cũng như cộng đồng, nên được rất nhiều người quý mến. Công việc thường ngày của chị là thư ký cho văn phòng bác sĩ. Tính tới thời điểm bây giờ thì chúng tôi biết nhau cũng hơn hai mươi năm.
... Nơi chúng tôi đặt chân đến nước Mỹ là Sacramento, California, nhà của ông anh, với nhiều ngỡ ngàng mới lạ. Thuở đó Sacramento đất rộng người thưa. Nhiều hôm tôi ra trước nhà, nhìn tới nhìn lui không thấy bóng người qua lại; tôi ngồi bệt xuống đường đi bộ cho đỡ mỏi chân. Nhiều người nhìn tôi nói, sao mà giống y như "homeless", nếu tôi có thêm một vài bao bị kề bên. Nhiều đêm, giật mình tỉnh giấc tôi ngỡ mình đang ở Việt Nam. Một thời gian ngắn, chúng tôi xuôi Nam xuống Los Angeles... rồi đến Florida. Vì cuộc mưu sinh, tôi đi nhiều nơi, viếng nhiều chỗ nhưng chưa có dịp trở lại nơi đầu tiên đến Mỹ với nhiều kỷ niệm...
Tôi có thói quen thích đi chợ trời. Mỗi cuối tuần ấn định hai ngày thứ Bảy và Chúa Nhật, chưa kể ngày lễ, tôi rất háo hức mong trời mau sáng để đi chợ trời. Một người bạn ở Mỹ lâu năm chê: - Tao không biết chợ trời có gì hấp dẫn mà lôi cuốn mày đến đó u mê như một tên nghiện? - Ậy, điều sung sướng mày sao biết được, “Flea market-Chợ trời” mua được nhiều đồ vật lạ, các đồ cổ mày không thể nào mày thấy trong cửa hàng. Không đi mày làm sao cảm hứng thú vị được như tao....
Nhạc sĩ Cung Tiến