Hôm nay,  

Theo Dòng Lịch Sử

18/04/202500:00:00(Xem: 3628)

Theo dong lich su
Ảnh: Lễ Ra Trường của các sinh viên sĩ quan năm Thứ 4 của trường OSU, ngày 02 tháng 03 năm 2025.
 Tác giả từng nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Ông tên thật Trần Phương Ngôn, đã sống ở trại tỵ nạn PFAC Phi Luật Tân gần mười một năm, hiện là cư dân Dayton, Ohio.
 
***
      
 
Chiếc xe bus “Greyhound” lăn bánh chầm chậm vào bến ở Sacramento, miền Bắc của tiểu bang California vào một buổi chiều thu năm 1999 rồi từ từ dừng lại. Tôi bừng tỉnh khi đang ngồi quan sát cảnh vật bên ngoài, bởi mọi thứ, mọi người ở đây đều lạ lẫm đối với tôi vì tôi chỉ mới tới định cư tại quốc gia này có hai tháng thôi! Đứng dậy, vác chiếc ba lô đang để dưới gầm ghế lên vai tôi bước theo những người đi trước rời khỏi xe.
 
Vừa đặt chân xuống đất và ngó dáo dác xung quanh thì một người đàn ông trờ tới gần chỉ mặt tôi và ngoắc, đoạn quay lưng vội vã bước đi. Dù chỉ thoáng qua và xa nhau từ năm 1979 tới nay nhưng tôi vẫn nhận ra ngay người ấy là chú Tám của tôi, tôi lập tức lẽo đẽo theo sau.
 
Xa xa đằng kia, có hai người đàn ông nữa đang đứng đợi chờ mà nhìn sơ qua tôi biết đó là bác Hai và chú Bảy của tôi liền. Không vồn vã thông thường như đàn bà, những người đàn ông nhà tôi vẫn bình thản, chỉ mỉm cười như vài ngày chưa thấy nhau!
 
Chú Bảy nhìn tôi từ đầu đến chân, lắc đầu, vỗ vai, cười nụ:
 
- Mẹ…gì mà râu ria xồm xoàm, bụi đời dữ vậy nè?
 
Đoạn bốn người kéo nhau ra xe, về nhà. Chiều đó trong lúc ông anh, bà chị con bác Hai tôi lo nấu nướng đãi tôi ở dưới bếp thì bốn người đàn ông chúng tôi ngồi quây quần nơi phòng khách hàn huyên. Bác và mấy chú tôi chỉ lắc đầu nghe quãng đời gian truân với hành trình vượt biển tìm tự do của tôi mà chẳng biết nói sao hơn là thở dài ngán ngẫm!
 
Hai mươi lần vượt biên, ba lần bị bắt với gần sáu năm tù ở các trại cải tạo và hơn mười năm chết dí nơi trại tị nạn Phi Luật Tân đã khiến tôi từ một chú bé học trò Taberd thơ ngây ngày nào nay trở thành một tay lăn lộn giang hồ, bợm bãi!
 
Ngồi đối diện với chú Bảy, tôi phải nhìn kỹ lắm mới có thể nhận ra được ông nhờ các nét quen thuộc ngày xưa, vì đã gần 25 năm tính từ tháng Tư, 1975 chứ ít ỏi gì? Tôi vẫn nhớ…
 
… Một chiều của ngày 24 hay 25 tháng 04 năm ấy, trong lúc tôi đang đứng trước sân nhà bỗng thấy ba tôi hối hả chạy về, mặt mày vô cùng lo âu. Rồi ông kêu tôi leo lên ngồi sau chiếc xe Honda 67 đàn ông, màu đen của ông và đi lên Gò Vấp tới vòng đai tiếp giáp với phi trường Tân Sơn Nhứt. Đoạn ông giảm ga, cho xe chạy rề rề, men theo đường lộ và gấp gáp tắp vô lề khi thấy chú Bảy tôi đang đứng chờ sẵn bên trong.
 
Ba tôi bảo tôi đứng coi chừng xe, còn ông băng qua vườn rau cải mà dân chúng trồng ven đường để tới sát hàng rào kẽm gai. Tôi không biết ba tôi và chú tôi nói gì nhưng tôi nhớ là tôi chờ ba tôi lâu lắm. Khi hai anh em từ giã, chú tôi giơ tay vẫy vẫy về phía tôi lúc chú bước qua bãi cỏ rộng lớn để vô lại phi trường. Sau khi trở về, ba tôi nhờ một đứa cháu gái là con của người em thứ năm tới nhà của chú Bảy tôi ở gần chợ Thị Nghè để trông coi và giữ nhà. Đó là lần cuối tôi thấy chú Bảy tôi!
 
Năm tôi khoảng chừng hai mươi tuổi, ba tôi mới cho biết là chú tôi làm việc cho cơ quan DAO (The Defense Attache Office) nên được cơ quan này đưa vào phi trường đi di tản cùng vợ con từ mấy ngày trước nhưng chẳng hiểu vì sao đến hôm ấy vẫn còn kẹt lại do đó lúc ba tôi nhận được tin chú tôi nhắn muốn gặp ông qua người quen được ra vô phi trường thì ông lo lắng nhiều là thế. Ông còn cho biết thêm ngày đó chú tôi dặn ba tôi là nếu sau này có bất cứ ai hỏi về chú thì hãy trả lời là chú ấy đã mất tích trong lúc lộn xộn bởi chiến tranh rồi vì trong xóm tôi có một số Việt Cộng nằm vùng đã lộ diện và đang nỗ lực tìm tung tích chú. Đây là lý do chú biệt tăm vì sợ, không dám viết thư liên lạc về nhà suốt nhiều năm dài, nhưng điều này lại khiến cho nhà tôi thắc mắc, lo âu. Đôi khi mọi người lại nghĩ quẩn có thể gia đình chú đã mất trong các đợt pháo kích của cộng sản vào phi trường mấy ngày sau đó rồi cũng nên!
 
Riêng chú Tám tôi thì cũng có thay đổi chút đỉnh nhưng tôi có thể nhớ ra ngay nhờ khoảng thời gian xa cách ngắn hơn. Bởi sau buổi “tan đàn, xẻ nghé” đau thương kia thì độ chừng tối ngày 3 hoặc 4 tháng Năm, 1975 gì đó không nhớ rõ lắm, tôi đạp xe đạp về thăm nhà nội ở Ngã Ba Cây Thị thì thấy chú Tám tôi cùng bác Ba và bác Năm đang ngồi nơi chiếc bàn kê chỗ tấm thổ rộng lớn giữa nhà trên và nhà dưới nói chuyện rôm rả. Đây là hai người con của ông cậu Chín, anh ruột của bà nội tôi ở cạnh bên. Bác ba là đại úy, Trưởng Ban Lãnh Thổ Quân Đoàn, còn bác Năm là trung tá không ảnh của Phòng Nhì Bộ Tổng Tham Mưu, của Việt Nam Cộng Hòa.
 
Cả ba đang bàn luận lung tung, xem xét sự tình buổi giao thời và nhận định mọi việc trước hoàn cảnh mới một cách khá căng thẳng. Và đó là lần sau cùng tôi gặp vì sau đấy cả ba người ra trình diện “học tập cải tạo” rồi bị lừa đi tù suốt nhiều năm dài. Chú Tám tôi thì học trường Quốc Gia Thương Mại nên chỉ là thiếu úy Quân Tiếp Vụ do vậy nhờ có trình độ chuyên môn ông được thả về đầu năm 1978. Tính thời gian thì ông bị tù hơn hai năm nhưng cũng suýt mất mạng trong đợt dịch bệnh tiêu chảy bùng phát dữ dội ở các trại cải tạo trong Nam khiến nhiều sĩ quan bỏ mạng mà tới bây giờ sách sử vẫn còn lưu truyền!
 
Trở về xã hội, sống đời thường nhưng dù có chuyên môn chú Tám tôi vẫn phải chạy vạy khắp nơi mới xin được chân kế toán quèn cho Xí Nghiệp Dệt. Hằng đêm chú ngồi gầm đầu cho đám “Ba Mươi Tháng Tư” lên lớp sỉ vả, chửi bới nhiếc móc, kể lể tội ác với cách mạng, nợ máu với nhân dân. Chú phải nhẫn nhịn ngày bọn công an phường, khóm cùng mấy ông bà tổ trưởng thất học họp xét “trả quyền công dân” trong tủi nhục đắng cay.
 
Biết không sống nổi với tận cùng nỗi khốn nạn của chế độ, chú đã theo gia đình nhà vợ; vốn là người Hoa ở Biên Hòa, đóng tiền vượt biển ngay khi phong trào vượt biên bán chính thức của Hoa Kiều nổ ra. Nhà vợ của chú Tám tôi dù đã bị đánh “Tư Sản Mại Bản” tơi tả nhưng vẫn rất hay là còn dấu được một số vàng đủ để đóng cho hơn cả mười người trốn thoát.
 
Cuộc hải trình của chú vào tháng Năm, 1979, đầy gian nan. Theo lời chú viết trong thư gửi về kể lại thì ngày ấy vợ chú đau bụng dữ dội và sanh con ngay trên biển, may mắn là nhờ trên tàu có một ông bác sĩ sản khoa, giúp đỡ đẻ với dụng cụ chỉ có một chiếc dao lam mong manh như số phận mọi người lúc ấy mà thôi. Sau đó, tàu này vô tới Mã Lai thì bị đuổi ra, phải chạy lên Hồng Kông nhưng không được cho vào. Đang lúc còn lênh đênh giữa biển khơi chưa biết phải đi đâu thì tàu của chú được một tàu hàng cứu vớt gửi vô Mã Lai lại. Tính ra họ đã ở ngoài đại dương gần cả tháng trời mới được cập bến!
 
Vài tháng sau thì gia đình chú về Ý định cư vì theo luật hàng hải quốc tế thì trẻ em sanh trên biển phải lấy quốc tịch của vị thuyền trưởng của tàu nào cứu vớt.
 
Năm 1980, thì do hoàn cảnh tôi đã về nhà nội tôi ở và vào một buổi trưa hè nắng gắt, tôi ngồi trước hiên nhà hóng gió vì hôm ấy cúp điện, trong nhà nóng quá thì bất ngờ ông đưa thư ghé lại, đập cửa cổng la to:
 
- Trần Văn N. có thư. Có thư ngoại quốc đây!
 
Nghe gọi tên ba mình, tôi lật đật chạy ra. Tưởng là thư của chú Tám tôi, nhưng khi thấy thư ghi địa chỉ cũ trước 1975 với nhiều đường vẽ hướng dẫn tìm nhà chằng chịt trên phong thư, tôi ngạc nhiên lật ra mặt sau xem tên người gửi và mừng rỡ phóng vô nhà lấy tiền thưởng cho bác đưa thư, đồng thời miệng hét lớn:
 
- Chú Bảy! Thư chú Bảy ba ơi! Thư ở Mỹ, thư ở Mỹ!
 
Từ trong phòng ba tôi và cô Út tôi cũng hớt hải chạy ra. Ba tôi cầm lấy bức thư, nhắc nhỏ:
 
- Suỵt, nín! Thư ở Mỹ mà còn la um sùm, điên hả mậy?
 
Tôi nhìn hàng chữ chú tôi ghi bên dưới bản đồ chỉ dẫn mà phì cười và còn nhớ mãi tới bây giờ “Đây là địa chỉ cũ gần chợ Ngã ba Cây thị. Nhà ở trong con hẻm, sát sân banh Lê Văn Duyệt, mong anh chị đưa thư cố gắng giùm. Gia đình xin hậu tạ!”
 
Thế là nhờ vậy mà hai chú tôi liên lạc được với nhau. Rồi chú Bảy tôi làm giấy tờ cho chú Tám tôi sang Mỹ. Tuy nhiên dù là sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, nhưng vì chú Tám tôi đã tái định cư ở đệ tam quốc gia nên Mỹ từ chối cho đi theo diện tị nạn và chú Bảy tôi buộc lòng phải làm hồ sơ bảo lãnh anh em do vậy mà tới cuối năm 1988 chú Tám tôi mới đặt chân lên đất Mỹ được!
 
Trong thời gian này thì hai bác của tôi bị đưa ra giam cầm ngoài miền Bắc. Bác Ba tôi bị nhốt ở trại Thanh Hóa tới giữa năm 1980 mới được tha về. Còn bác Năm thì ở Vĩnh Phú, sau đó được chuyển về Z 30D, Hàm Tân, Thuận Hải cho mãi tới gần cuối năm 1986 mới được thả ra.
 
Khi bang giao giữa hai chính phủ Việt Nam cộng sản với Mỹ được cải thiện và nhằm chấm dứt phong trào tị nạn bằng đường biển, họ đã đẩy mạnh chương trình gia đình đoàn tụ được biết như là ODP, nhân viên Sở Mỹ, tái định cư cựu tù cải tạo ở Hoa Kỳ qua con đường HO…thì bác Hai tôi nhờ làm việc cho hãng xăng Esso nhiều năm trước 1975 nên đã nộp đơn đi diện nhân viên Sở Mỹ và lên đường vào năm 1990. Bác Năm thì dẫn vợ con sang Hoa Kỳ, định cư ở Philadelphia, PA, theo diện HO vào năm 1991!
 
Giờ đây không ai phủ nhận được rằng Hoa Kỳ và Việt Nam đã có một “khúc chung lịch sử chiến tranh!” Khi nói tới Hoa Kỳ về chiến tranh cận đại là người ta nghĩ ngay đến Việt Nam; một quốc gia nhỏ bé bên kia bờ đại dương, đã khiến Mỹ gánh lấy sự thất bại nhục nhã, cay đắng phũ phàng. Và ngược lại, đối với người Việt yêu chuộng tự do thì mỗi lần nhắc tới Ngày 30 Tháng Tư năm 1975 là trong lòng người ta lại dấy lên mối oán hờn bị bỏ rơi, bị đồng minh phản bội đưa tới việc thua trận trong tan tác, ê chề!
 
Hôm nay, gần năm mươi năm ngày mất miền Nam Việt Nam lại sắp tới, biết bao bậc tiền bối, ông bà cha chú, hy sinh tuổi thanh xuân để bảo vệ quê hương đất nước đã ra người thiên cổ. Tôi lúc này đã thành một ông già hơn sáu mươi lăm tuổi, tóc bạc lưng còng, trải qua bao dâu bể ngồi nhìn lại lịch sử, suy ngẫm về con đường để chấm dứt một đời ô nhục ngay chính trên quê hương mình mà người Việt lưu vong khắp nơi phải đi qua kiếp nạn với bao nhọc nhằn, hy sinh tất cả cũng chỉ là vì hai chữ tự do!
 
Tôi thấm thía nỗi uất nhục ấy bởi trong gia đình họ hàng nhà tôi đã có đầy đủ người kinh qua những giai đoạn bi thương của biến cố lịch sử oan nghiệt đó từ chuyện di tản, tù đày, đến vượt biên bán chính thức, vượt biển quên thân, rồi định cư diện nhân viên Sở Mỹ, HO…
 
Thời hậu vận, tôi may mắn được sống thanh bình ở đây với một gia đình yên ấm và có đứa con trai đang được đào tạo trong lực lượng sinh viên sĩ quan trừ bị của binh chủng Không Quân Hoa Kỳ (AFROTC). Tương lai của nước Mỹ là tương lai của con tôi! Lịch sử của nước Mỹ ngày mai sẽ là lịch sử của con tôi! Đây là điều mà không ai có thể tranh cãi được nếu dõi theo dòng lịch sử! Thế hệ người Mỹ gốc Việt nơi này sẽ là nhịp cầu nối liền lịch sử của hai dân tộc để một mai hy vọng cả người Mỹ lẫn người Việt tự do không còn cắn đắng với nhau nữa mà có thể cảm thông với nhau trong nỗi mất mát chung và bước qua vũng tối lịch sử, hướng tới tương lai một cách tốt đẹp hơn!
 
Dù thế nào đi chăng nữa thì người Việt ở Hoa Kỳ cũng phải cám ơn đất nước Mỹ, nhân dân Mỹ, chính phủ Mỹ qua nhiều thời kỳ; trừ một vài người có tính khí thất thường, tinh thần bất ổn, tâm sinh lý rối loạn, đã cho họ một cơ hội sống còn!
 
Thank you America!
Thank you American people!
Thank you American government!
God bless you all !
 
Cám ơn Nước Mỹ!
Cám ơn con người và chính phủ Hoa Kỳ!
Chúc lành cho tất cả!
 
Triều Phong (TPN)
 
Ohio, Lập Xuân 2025
Mùa Quốc Hận năm thứ năm mươi.
 

Ý kiến bạn đọc
19/04/202511:32:16
Khách
Kính gửi tòa soạn Việt Báo,
Tác giả xin chân thành cáo lỗi cùng quý báo và độc giả vì đã viết sai lỗi chính tả của chữ "dấu" thay vì là "giấu" bởi là người miền Nam tôi đã viết theo cách nói nên không đúng!
Chân thành cám ơn.
Triều Phong
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 256,105
Một cô bé Mỹ lai Việt, khoảng 12-13 tuổi với mái tóc dài ngang vai quăn tự nhiên, ôm lấy khuôn mặt bầu bĩnh, đôi mắt nâu tròn to, vai đeo một ba lô khá nặng so với thân hình mảnh khảnh của mình, hai tay ôm một em bé còn rất nhỏ chừng hai, ba tháng tuổi, cô bé đứng trong đuôi người nối dài xếp hàng ở trước cửa ngân hàng Bank of America, trên đường Harbor, Garden Grove, California chờ đến lượt mình. Những người đứng chờ phía trước thấy cô bé có con nhỏ bèn nhường chỗ để cô bé được tiếp sớm hơn, ai cũng tò mò nghiêng người nhìn vào bên trong lớp vải quấn đứa trẻ xem thử đứa bé ấy là con gái hay con trai, lớn nhỏ ra sao, có bà người Mỹ đứng sát bên lên tiếng: - Chắc cháu bé mới hơn hai tháng phải không? Còn nhỏ quá bế ra đây làm gì? - Sao không để nhà cho mẹ cháu giữ nó? Khuôn mặt của cô bé một chút ngỡ ngàng, lo lắng nhìn xung quanh không biết phải trả lời ra sao, chỉ yên lặng cúi nhìn đứa trẻ đang say giấc trong tấm khăn hồng êm ấm.
Ngôi nhà nằm ở một vùng ngoại ô, khuất sau những tàng cây cổ thụ, phủ đầy rêu phong và ký ức. Mỗi viên gạch, mỗi góc tường, đều như đang thì thầm câu chuyện về một gia đình đã từng hạnh phúc, ấm êm. Ông Lâm, với mái tóc bạc phơ như sương tuyết và dáng người gầy gò, liêu xiêu theo năm tháng, ngồi lặng lẽ trên chiếc ghế mây cũ ở hiên nhà. Chiều tà buông xuống, nhuộm tím cả khoảng sân, mang theo hơi lạnh se sắt của cơn gió trở mùa, lay lắt những cánh hoa đỗ quyên đỏ thắm trước ngõ, như ngọn lửa nhỏ đang cố gắng níu giữ hơi ấm sắp tàn lụi. Mỗi cơn gió đi qua, ông Lâm lại khẽ rùng mình, không phải vì lạnh, mà vì nỗi cô đơn quạnh quẽ đang bám riết lấy ông từ hai năm nay. Từ ngày người vợ yêu quý của ông về với đất.
Mùa Hạ đã bắt đầu báo hiệu, các loài hoa thi đua nở đủ màu sắc tươi vui. Anh Quang bước ra sân theo tiếng gọi của vợ nhờ bưng phụ mấy chậu hoa quỳnh lên bệ cao, vì muốn ngắm nét đẹp của loài hoa trang đài đang nở hàng chục đóa hồng và vàng. Bé LiLy bước chân cao chân thấp đi theo cha cười hồn nhiên.
Có những người Cha tôi đã gặp Hiến dâng đời, phục vụ tha nhân Sáng danh Chúa, sống Phúc Âm Gieo lời Chân Lý xa gần nơi nơi … (KL) Đó là những vị linh mục mà tôi đã có dịp tiếp xúc trong thời gian bốn năm sống ở trại tỵ nạn Thái Lan. Nói về các Cha thời tỵ nạn thì có rất nhiều điều muốn nói, nhưng có nói thêm trăm ngàn lời cũng vẫn chưa đủ. Ở trại, chúng tôi may mắn có được các Cha người Việt Nam (cũng là nguời tỵ nạn vượt biên). Các Ngài là những người khởi đầu lập nên nhà thờ đơn sơ đầu tiên nơi trại cấm Panatnikhom, viết tắt là Panat, (gọi là Trại Cấm vì chúng tôi là những thuyền/bộ nhân đến trại tỵ nạn sau ngày Cao Ủy tuyên bố đóng cửa không nhận người tỵ nạn, nên chúng tôi bị xem là bất hợp pháp, phải ở Trại Cấm chờ nước sở tại thanh lọc, xét duyệt tư cách tỵ nạn).
Trải qua bao thời gian, những người bạn cũ rời xa, những người bạn mới xuất hiện, nhiều khuôn mặt đến, rồi đi, như nước chảy qua cầu. Vậy mà có một khuôn mặt đặc biệt, ở lại rất lâu trong góc trái tim tôi, một nhỏ bạn thật đặc biệt. Đặc biệt, là vì nó là... người Nga. Tôi đã từng có ác cảm với dân tộc Nga, từ những ngày trước năm 1975, là năm đổi đời, đổi hướng tương lai của đa số dân tỵ nạn cộng sản. Ác cảm là vì, giống dân từ một quốc gia xa lạ và rất xa trên bản đồ trái đất, đầu tiên tạo ra chế độ Cộng sản, lại đầu độc cả thế giới qua cái chủ nghĩa Cộng sản ác nhân thất đức.
Thưa anh Don, tôi biết hương hồn anh đang hiện diện quanh quất đâu đây, trong khán phòng này và nghe được những lời tôi nói. Cảm ơn anh đã luôn là người hàng xóm tốt bụng. Anh thường xuyên cắt cỏ cho khoảng sân trước nhà chúng tôi khi cắt cho nhà anh. Không chỉ cắt thôi đâu quý vị, anh còn tỉa rồi thổi bằng máy thổi sạch bóng, từ sát cửa ra vào đến sân xe chạy. Lần nọ, nhà chúng tôi bị bể ống nước, ngập lụt ngoài phòng khách lên tận mắt cá, anh là vị cứu tinh đã khóa nước trước khi chồng tôi kịp về nhà. Bao lần chúng tôi quên đóng cửa “garage” qua đêm, anh luôn nhắn tin cho tôi “Cửa garage nhà chị còn mở đó nhe.” Tôi cảm thấy rất hổ thẹn vì chưa mời anh được một bữa ăn Việt Nam! Tệ thật! Tôi có mua biếu anh hộp bánh vào dịp Noel mấy năm nhưng nhìn lại thấy không đủ so với những gì anh đã làm cho gia đình tôi! Nhưng tôi vĩnh viễn không còn dịp nữa rồi!
Hàng năm, cứ qua giữa tháng Năm là nước Mỹ lại bắt đầu rộn ràng hơn cho ngày lễ hội Memorial Day sắp tới! Các “florist centers” lo chuẩn bị thêm nhiều hoa để cung cấp cho người tiêu thụ, những gian hàng đồ lưu niệm bày biện lắm thứ hơn để bán. Walmart, Krogers tấp nập khách hàng vì có đông người đi chợ cho các tiệc tùng ăn uống chiều hôm đó. Như chúng ta biết, ngày lễ này được long trọng tổ chức vào mỗi thứ Hai cuối cùng của tháng Năm nhằm vinh danh những người lính đã xả thân hy sinh trong quân đội Hoa Kỳ. Ngược dòng lịch sử và theo các sử gia thì cuộc nội chiến Mỹ được xem là có nhiều người chết nhất nên những nghĩa trang thành hình từ đấy. Vào mấy năm cuối của thập niên 1860 thì ở nhiều quận, hạt, tỉnh, thành, thiên hạ bắt đầu tới sửa sang, dọn dẹp vệ sinh cho những ngôi mộ của người thân mình, mang theo bông hoa trang hoàng cho các ngôi mộ đó; những chiến binh đã nằm xuống!
Là con trai trưởng trong một gia đình có chín anh em, tôi sống với Mẹ trong hầu hết bảy mươi bốn năm đời mình. Chỉ có hai lần tôi phải xa Mẹ lâu nhất, mỗi lần tám năm, đều liên quan đến nước Mỹ và Mẹ. Lần thứ nhất từ năm 1991 khi Mẹ đi tỵ nạn Hoa Kỳ theo diện H.O. Tôi kẹt lại quê nhà cho đến cuối năm 1998 mới đi đoàn tụ gia đình theo diện ODP. Đi hay ở, một quyêt định không phải dể dàng với tôi lúc bấy giờ. Những năm chín mươi sau những tháng năm sống vất vả, cay đắng và tủi nhục để kiếm sống và tồn tại, đứa con một sĩ quan tù cải tạo, nhờ thời kỳ mở cửa, các công ty nước ngoài lần lượt vào Việt Nam, tôi được làm việc cho văn phòng đại diện công ty Hoa Kỳ AMP tại Việt Nam. Mức lương 700 USD của một giám đốc kỹ thuật hồi đó là một con số rất lớn nếu so với đồng lương 50 USD của một kỹ sư mới ra trường.
Cũng như bao đứa con trai khác, hồi bé tôi mơ ước được đi máy bay. Vì lớn lên ở Việt Nam sau 1975, mơ ước đó xem ra khó thành hiện thực. Thế rồi khi tôi 18 tuổi, giấc mơ ấy đã đến khi tôi leo lên chiếc máy bay TU134 của Liên xô tại phi trường Tân Sơn Nhất để đi định cư ở Mỹ theo diện bảo lãnh, như đã kể trong bài viết dự thi Viết Về Nước Mỹ đầu tiên của tôi vào năm 2002. Ở Mỹ trên 30 năm, tôi đi máy bay tương đối cũng khá nhiều và cũng có nhiều kinh nghiệm lý thú để hôm nay kể cho quý vị thưởng thức.
Trời mới hửng sáng, bà Năm đã trở dậy. Căn nhà im lặng như tờ, giờ này mọi người còn đang ngủ cả, bà lặng lẽ đến bên bàn thờ, thắp nhang cho chồng. Tay run run, nhưng bà vẫn cố gắng không để tàn nhang rơi xuống thảm. Con dâu đã dặn bà chỉ được dùng nhang điện, nến điện, nó sợ mùi nhang và sợ tàn nhang làm hư tấm thảm đắt tiền. Nhưng bà nghĩ không có hương khói, người chết biết đường đâu mà về? Bà chỉ an tâm, sung sướng khi có ông bên cạnh, mặc dù ông bây giờ chỉ là một hồn ma. Hương khói làm ấm lòng bà, ấm lòng cả người đã khuất, bà không thể để bàn thờ chồng hương khói lạnh tanh....
Nhạc sĩ Cung Tiến