Hôm nay,  

Những Kỷ Niệm Với Thầy Viện Trưởng Lê Thanh Minh Châu

25/10/202406:00:00(Xem: 3168)

Thầy Lê Thanh Minh Châu 1
TG Vĩnh Chánh cùng phu nhân viếng thăm thầy cô Lê Thanh Minh Châu
 

Tác giả đã nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ 2013. Năm 2019, Tác giả nhận thêm giải quán quân Chung Kết Vinh Danh Tác Giả Tác Phẩm Viết Về Nước Mỹ hay còn gọi là giải Hoa Hậu. Tốt nghiệp Y Khoa Huế, thời chiến tranh Bác sĩ Vĩnh Chánh đã là Y Sĩ Trưởng binh chủng Nhảy Dù. Bài viết dưới đây bày tỏ là lời tưởng niệm gửi đến vị thầy khả kính vừa từ trần- Giáo sư Lê Thanh Minh Châu, nguyên Viện trưởng Viện Đại học Y Khoa Huế.
 
Vài ngày trước Giáng Sinh 2023, tôi điện thoại chúc Thầy Cô Viện trưởng Lê Thanh Minh Châu bình an trong tình yêu thương của Chúa Hài Đồng, đồng thời chúc sức khỏe Thầy Cô trong năm mới 2024. Vào dịp Tết Nguyên Đán tháng 2, 2024, tôi lại điện thoại chúc Tết Thầy Cô, nhưng lần này không được trả lời, nên tôi đành gởi lời chúc qua text message, kèm theo lời mời sớm, mong Thầy Cô tham dự Đại Hội Y Khoa Huế (YKH) Hải Ngoại vào khoảng tháng 7 năm nay. Tôi không nhận trả lời của Thầy. Mãi hơn một tháng sau, trong bất ngờ và cảm xúc, Hội YK Huế Hải Ngoại nhận tin buồn chính thức từ gia đình cho biết Thầy Lê Thanh Minh Châu đã thanh thản ra đi vào ngày thứ Tư, 28 tháng 2, 2024, tại Rancho Mirage, CA, hưởng đại thọ 94 tuổi.
 
Tháng 9, 2024, Hội YKH Hải Ngoại nhận được từ gia đình Thầy Viện trưởng Lê Thanh Minh Châu lời mời tham dự lễ Tưởng Niệm cho Thầy vào sáng ngày thứ Bảy, 26 tháng 10, 2024, tại nhà thờ Our Lady of Guadalupe ở Palm Springs, theo sau là một buổi tiếp tân thân mật và chia xẻ tâm tình tại tư gia Bác sĩ Lê Khôi, con trai Thầy Cô, ở Rancho Mirage. Đến ngày hôm ấy, gần 50 anh chị em YK Huế Hải Ngoại – có những anh chị đến từ các tiểu bang xa, như New Jersey, New York, Philadelphia/ PA, kể luôn cả phu nhân cố Bs. Nguyễn Văn Vĩnh đến từ Houston/TX, sẽ có mặt trên chuyến xe bus do Hội thuê, cùng nhau đến cầu nguyện và tưởng niệm Thầy. Sự gắn bó của anh chị em chúng ta nói lên được tình thân ái và sự đoàn kết từng được chứng minh và hun đúc qua những gặp gỡ trong mấy thập niên qua, với sự hiện diện của Thầy Cô Viện Trưởng bên cạnh các Thầy Cô cơ hữu trong Ban Giảng Huấn của Đại Học YKH – một mối dây liên lạc nhân ái giữa Viện và Trường, và lòng biết ơn của trò với thầy.
 
Lần đầu tôi nhìn thấy Thầy Cô Lê Thanh Minh Châu & Tăng Thành Trai là vào cuối thập niên 60, trong những năm Đại Học Huế bắt đầu thành lập, khi Măng tôi được bà Ngọc Lan, tức mẹ của Cô Thành Trai, mời về nhà Thầy Cô sau thánh lễ sáng Chủ Nhật tại nhà thờ Phanxicô. Căn nhà Thầy Cô nằm ở góc đường Ngô Quyền, gần với tiệm bánh mì Chaffangeon. Theo chân mẹ, tôi vào nhà, ngồi yên trong một góc ở phòng khách và chứng kiến nhiều người lớn nói chuyện rất thân tình. Về sau tôi mới dần biết đó là các Ông Bà (OB) Giáo sư (GS) Bùi Xuân Bào, OB GS. Lê Hữu Mục, OB GS. Lê Văn, GS. Lê Văn Diệm, GS. Trần Quang Ngọc, OB BS. Lê Văn Điềm, OB BS. Nguyễn Văn Vĩnh…
 
Măng tôi là chỗ thân tình với bà Ngọc Lan – vì không những hai bà vốn từng học cùng nhau tại trường Đồng Khánh trong thời kỳ còn giáo dục của Pháp – mà về sau 1954, cả 2 bà đều dạy tại trường Đồng Khánh, cùng ở trong khuôn viên trường, và đặc biệt hơn nữa bà Ngọc Lan nhờ Măng tôi làm Vú Đỡ Đầu khi Bà trở lại Đạo năm 1956.
 
Sau cuộc đảo chánh 1963, tôi không còn thấy Thầy Cô Minh Châu, vì họ dời vào Saigon, đem theo bà Ngọc Lan. Mãi về sau tôi mới biết trong khoảng thời gian này, Thầy Cô đi tu nghiệp ở Mỹ.
 
Lần thứ nhì, tôi nhìn thấy lại Thầy Lê Thanh Minh Châu trong buổi tiệc Tất Niên tháng Giêng, 1968, do ban Đại Diện SV Đại Học YK Huế tổ chức, khoảng một tuần trước biến cố Mậu Thân. Trong tư cách Tân Viện Trưởng Viện Đại Học Huế, Thầy là vị khách mời danh dự của ban Đại Diện, bên cạnh các GS cơ hữu của ĐH YKH cùng các GS Đức trong phái bộ giáo dục YK của nước Tây Đức. Bấy giờ GS. Bùi Duy Tâm vừa nhận chức khoa trưởng ĐH YKH, nhưng Thầy Tâm không có mặt trong tiệc Tất Niên này, cũng như Thầy Lê Bá Vận đang du học tại Mỹ và Thầy Võ Đăng Đài đang nghỉ mát ở Đà Lạt sau mấy năm du học tại Tây Đức mới trở về nước.
 
Tiệc Tất Niên 1968 đã cho cá nhân tôi nhiều kỷ niệm đẹp khó quên. Không những tôi hãnh diện chính thức bước vào năm thứ Nhất của trường YK, với cảm nhận mình là một thành phần trong một tập thể mà chuyện học hỏi sẽ phải kéo dài ít nhất 6 năm, và nay lại được cho tham dự buổi tiệc Tất Niên to lớn đầu tiên trong cuộc đời sinh viên thì quả là hạnh phúc, nhất là khi nhìn các đàn anh, đàn chị rộn ràng sắp xếp mọi chuyện cho được tốt đẹp trước khi tiệc bắt đầu. Tôi được anh Trần Lương Hoa, mà tên cúng cơm là Coco, bấy giờ đang đang học năm thứ Ba, chỉ định đứng canh bên ngoài để báo cho anh biết khi nào xe của thầy Viện Trưởng đến. Khi thầy Viện Trưởng Lê Thanh Minh Châu bước vào phòng khánh tiết được trang trí lộng lẫy, anh Coco mở to bản nhạc Symphony # 5 của Beethoven, để chào đón Thầy. Hình ảnh Thầy cao ốm, lưng thẳng băng, nụ cười thân thiện trên môi, đang bước vào giữa tiếng vỗ tay chào đón nồng nhiệt, cùng với nhạc Sympnony #5 trổi mạnh, thật trang trọng và ấn tượng.
 
Sau nghi lễ, phần văn nghệ cũng thật xuất sắc. Tôi không ngờ các đàn anh trong trường lại chơi văn nghệ, đờn, hát, xuất sắc như vậy. Nào là anh Hà Thúc Như Hỷ, Nguyễn Xuân Thanh, Hoàng Thế Định, Tôn Thất Sang, Phạm Đăng Thiện, thân hữu Đặng Nho (thổi saxophone) … Anh Coco có mấy màn làm xiệc thật lạ mắt, được tán thưởng nhiệt liệt. Riêng phần ca hát, đặc biệt Cô Ngân Hà, tức phu nhân GS. Nguyễn Mạnh Hùng, trình bày bản “Biệt Ly” thật tuyệt.
 
Thầy Viện Trưởng Minh Châu được mời ra sàn nhảy “ouvrir le bal” với chị Trần Bích Hà, một người đẹp bấy giờ đang học năm thứ Nhất Văn Khoa; chị là bà con với các anh Coco, Trần Tiễn Sum, Trần Tiển Ngạc. Các bạn thân cùng lớp với tôi chỉ có hả miệng mà nhìn, và rất khâm phục ban Đại Diện cùng các đàn anh đàn chị đã tổ chức một đêm văn nghệ nhớ đời.
 
Ai ngờ chưa đầy một tuần sau, biến cố Mậu Thân đổ xuống trên toàn thành phố Huế, gieo bao nhiêu tang thương, chết chóc và mất mát cho Cố Đô thân yêu. Trong hàng ngàn nạn nhân bị Việt cộng giết, có 4 vị GS. người Đức và thầy Nguyễn Văn Đệ, chết trên đường bị chúng giải ra Bắc bằng đường bộ. Mãi sau này, thầy Minh Châu mới cho tôi biết hai ngày sau đêm Tất Niên của YKH, Thầy bay vào Saigon ăn Tết với gia đình, nên may mắn thoát chết.
 
Sau đêm Tất Niên năm 1968, ban Đại Diện Sinh viên YKH không còn tinh thần nào để tổ chức tiệc lớn tại trường cho đến khi mất nước. Và ngay cả trong những Đại Hội của YKH Hải Ngoại, ban tổ chức Đại Hội luôn tránh bản nhạc “Biệt Ly”, cho bài hát này là một điềm xui.
 
Những kỷ niệm về Đêm Tất Niên tháng Giêng 1968, với sự hiện diện của Giáo Sư Viện Trưởng Lê Thanh Minh Châu là khách danh dự và với nhiều chứng cớ ghi nhận ở trên, giúp tôi chứng minh GS. Lê Thanh Minh Châu đã đảm nhận chức vụ Viện Trưởng Viện Đại Học Huế từ đầu năm 1968, chứ không phải tháng 9, năm 1969 – như trong tài liệu xuất phát trên online.
 
Khi tôi học năm thứ Tư, có xẩy ra một tin làm chấn động hầu hết mọi sinh viên trong trường. GS. Khoa Trưởng Bùi Duy Tâm tập họp các sinh viên và loan báo Thầy bị GS. Viện Trưởng Lê Thanh Minh Châu bãi chức. Hầu như mọi sinh viên đều tức giận, vì ai cũng biết ơn Thầy Tâm đã cưu mang sinh viên YKH vào Saigon học tiếp hai niên học sau Mậu Thân. Ban Đại Diện Sinh viên cùng tất cả sinh viên tụ tập bên ngoài trường, không vào lớp học để phản đối thầy Viện Trưởng. Rồi cuối cùng, chúng tôi chỉ còn biết rầm rộ đưa tiễn GS. Bùi Duy Tâm từ trường YKH đến tận sân bay Phú Bài với nhiều cảm xúc, bùi ngùi đặc biệt dành cho Thầy.
 
Nhưng về sau, trong một lần nói chuyện riêng với thầy Minh Châu, tôi có nhắc đến câu chuyện Thầy Bùi Duy Tâm bị bãi chức, thầy Minh Châu cho tôi biết rõ như sau: Bấy giờ, thầy Viện Trưởng được biết là thầy Tâm đã nhận làm khoa trưởng trường YK mới thành lập tại Viện Đại Học tư Minh Đức, Saigon. Trong khi ấy, lệnh của Thủ Tướng chính phủ qua chỉ định của Tổng trưởng Bộ Giáo Dục là Viện Đại Học Huế bằng mọi cách cần phải cũng cố và phát triển hữu hiệu hơn. Thầy Minh Châu yêu cầu thầy Tâm xét lại thời gian làm việc tại Huế phải nhiều hơn so với thời gian ở Saigon, cho dù thầy Tâm tiếp tục vừa giảng dạy tại trường YK Saigon và vừa làm khoa trưởng trường YK Minh Đức. Nhưng thầy Tâm không chịu giải pháp của thầy Minh Châu, đồng thời thầy Tâm cũng không muốn từ chức. Điều này khiến thầy Viện trưởng Lê Thanh Minh Châu không còn giải pháp ôn hòa nào hơn là phải ký lệnh ngưng chức khoa trưởng ĐH YKH của thầy Bùi Duy Tâm.
 
Sau đó là thời gian Thầy Viện Trưởng phải tạm thời đảm nhận chức khoa trưởng YK Huế, cho đến khi GS. Lê Bá Vận chính thức được Bộ Giáo Dục bổ nhiêm làm khoa trưởng. Bấy giờ tôi cám ơn thầy Viện Trưởng cho tôi biết sự thật được che dấu hay vô tình hiểu lầm từ bao thập niên, và tự hứa sẽ giữ kín tin này cho riêng mình. Tuy nhiên, nay thầy Viện Trưởng đã ra đi, tôi nghĩ mình nên bạch hóa câu chuyện, đã một thời gây sự hiểu lầm không tốt cho thầy Viện Trưởng.
 
Năm 1975, tại Hoa Kỳ, Thầy nhanh chóng hợp tác với cơ quan AMA ký giấy chứng nhận của Hội Đồng Y Khoa Lưu Vong gởi cho tất cả cựu sinh viên từng tốt nghiệp YK Huế nay định cư tại Mỹ và có ý muốn theo học lại ngành Y. Trong vài tháng sau khi tôi đến Mỹ vào tháng 7, 1980, cá nhân tôi cũng nhận được tờ chứng nhận nói trên, và một lá thư giới thiệu riêng của Thầy, có kèm chức vụ và khuôn dấu ĐH Notre Dame, nơi Thầy đang làm việc.  
 
Sau hưu trí, Thầy Cô chọn về sống tại Palm Spring cho được gần gia đình hai con của mình và nơi có thời tiết tốt cho người lớn tuổi. Tôi lại có dịp liên lạc, tiếp xúc với Thầy Cô nhiều lần. Trước nhất là để hỏi thăm sức khỏe Thầy Cô, đồng thời cho Thầy biết những sinh hoạt của Hội, sự thành đạt đặc biệt của vài anh em trong Hội hay của thế hệ thứ hai. Cách Thầy lắng nghe, hỏi thăm, nhận xét, trả lời, với giọng nói chậm rãi, thành thật…cho tôi thấy Thầy luôn ân cần và quan tâm đến hầu hết những gì, những nhân vật xưa và nay, từng liên hệ đến Viện ĐH Huế nói chung, YKH nói riêng, và ngay cả với trường Providence/Thiên Hữu, nơi mà Thầy, Nhạc Phụ tôi và cá nhân tôi từng theo học nhiều năm. Những lần đến thăm Thầy Cô tại nhà, hay qua nói chuyện trên điện thoại, hoặc khi được đón tiếp Thầy Cô trong các Đại Hội, Hội Ngộ lớn nhỏ và tại nhà chúng tôi… Thầy đã mở rộng tầm nhìn của tôi, và quan trọng nhất đã giúp tôi học hỏi được đức tính khiêm tốn, tấm lòng vị tha và sự nhớ ơn đời. Vì vậy tôi không ngần ngại chia sẻ với Thầy những bài viết của mình đăng trên trang nhà của YKH Hải Ngoại và Mục Viết về Nước Mỹ của Việt Báo, vì tính Thầy kín đáo, không muốn trực tiếp có tên trong danh sách của diễn đàn YKH.
 
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của tôi là mời cho được Thầy Cô tham dự các Đại Hội của Hội YKH Hải Ngoại, hay những tiệc hội ngộ mà sự có mặt của Thầy Cô, bên cạnh các vị Thầy trong Ban Giảng Huấn YKH, luôn mang đến niềm vui và hãnh diện cho anh chị em YKH. Để mời cho được Thầy Cô, và vì biết được ý của Thầy, nên bao giờ tôi cũng nêu tên một loạt quan khách danh dự khác được mời, và nhất là không bao giờ sót tên anh chị Trần Dạ Từ & Nhã Ca, là những nhân vật đặc biệt Thầy Cô rất quý mến và luôn biết ơn. Là một thành phần trong ủy ban “Tái Thiết và Trùng Tu Cố Đô Huế” sau Mậu Thân, chị Nhã Ca đã trao tặng 2 trăm ngàn đồng cho quỹ trùng tu cơ sở vật chất của trường ĐH YK Huế, 2 trăm ngàn đồng giúp xây lại phòng thí nghiệm Hóa Học và Vật Lý của ngôi trường Mẹ Đồng Khánh, khi chị đến thăm cùng với Linh Mục Cao Văn Luận, nhạc sĩ Cung Tiến, nhà văn Doãn Quốc Sĩ… Chị cũng giúp đỡ nhiều cơ sở giáo dục và xã hội khác tại Huế.

Trong hai thập niên sau này, hầu như Thầy Cô Viện Trưởng không bỏ sót các Đại hội của YKH Hải Ngoại, dù tổ chức gần hay xa, như ở tiểu bang New Jersey, Montreal… đồng thời Thầy Cô cũng tham gia các cuộc du ngoạn chung với anh chị em sinh viên.
 
Đặc biệt vào tháng 7, 2019, vợ chồng chúng tôi hân hạnh được đón tiếp Thầy Cô Viện Trưởng trong buổi Ra Mắt Sách “Tháng Ngày Tao Loạn” của tôi, tại nhà hàng Royal Banquet, cùng với trên 350 quan khách, trông đó có gần phân nửa là anh chị em trong Hội YKH Hải Ngoại cùng quý Thầy Cô trong Ban Giảng Huấn, và phần còn lại gồm nhiều quan khách danh dự, thân quý, trong đó có anh chị Trần Dạ Từ & Nhã Ca, nhà văn Phạm Tín An Ninh, nhà văn Tràm Cà Mau, OB GS. Nguyễn Xuân Vinh, OB. Trung Tướng Nguyễn Bảo Trị, anh chị Bs. Nguyễn Thượng Vũ, anh chị Bs. Nguyễn Ngọc Kỳ & Lê Tín Hương; cùng nhiều thân hữu xa gần, bạn thuở thiếu thời từ Úc, Texas, Florida và các cựu chiến binh Mũ Đỏ… Nhìn thấy nhiều quan khách và các đồng môn tìm đến chào hỏi Thầy Cô Viện Trưởng, tôi cảm thấy “thơm” lây.
 
Qua ngày hôm sau, Hội YKH Hải Ngoại lại vui mừng đón tiếp Thầy Cô Viện Trưởng, GS. Lê Bá Vận, cựu Khoa Trưởng ĐH YKH cùng các Thầy Cô tại Đại Hội chính thức của Hội YKH Hải Ngoại, cũng tại nhà hàng Royal Banquet. Và ngày hôm sau nữa, Thầy Cô Viện Trưởng lại tham dự cuộc du ngoạn San Diego bằng xe bus cùng với các cựu sinh viên YKH. Đó là một vinh dự khó quên cho năm 2019 khi Thầy Cô Viện Trưởng sinh hoạt chung với Hội luôn cả ba ngày liên tiếp.   
 
Tháng 8, 2019, vợ chồng chúng tôi vô cùng hãnh diện mời được Thầy Cô Viện Trưởng tham dự Giải Thưởng Viết Về Nước Mỹ. Đến khi tôi được nêu tên và nhận giải thưởng Chung Kết Tác Giả - Tác Phẩm. Vợ tôi và Thầy Viện Trưởng cùng tiến lên sân khấu trao bó hoa cho tôi. Và kẻ trước người sau, mỗi người đều ghé hôn tôi một cái, Nàng thì trên má tôi, Thầy thì trên trán tôi. Đúng là tình Xuân giữa mùa Hạ. Vì không những cả hai người “tỏ tình” với tôi, ban thưởng cho tôi, đều mang cùng một tên Minh Châu, mà đây phải là nụ hôn đầu tiên của vợ cho chồng và của thầy cho trò, xẩy ra giữa đám đông đang nhiệt liệt vỗ tay tán thưởng.
 
Dù Hội YK Huế không thực hiện được đại hội trong năm 2020 và trở về sau vì đại dịch Covid, tôi thường xuyên gọi điện thoại hay gởi text hỏi thăm sức khỏe Thầy Cô. Bấy giờ tôi mới biết Thầy Cô đã chuyển nhà từ Palm Springs về ở chung nhà với con trai là Bs. Lê Khôi, một bác sĩ chuyên về tim mạch, tại Rancho Mirage, cách nhà cũ chưa đến nửa giờ lái xe.

Tháng 7, 2021 là lần cuối vợ chồng chúng tôi đến thăm Thầy Cô tại tư gia con trai là Bs. Lê Khôi, ở Rancho Mirage. Chúng tôi được Thầy Cô mời đi ăn trưa bên ngoài và được nghe Thầy tâm sự về cuộc đời Thầy Cô, từ thuở mới quen biết nhau tại Huế cho đến khi du học, Cô tại nước Pháp, Thầy tại nước Anh, thành đạt vừa xong thì thành hôn tại Anh Quốc. Rồi cả hai quyết định kéo nhau về Huế dạy khi Đại Học Huế mới thành lập, rồi cả hai lại du học chuyến thứ hai, lần này tại Hoa Kỳ. Sau khi Thầy xong bằng Ph.D về Giáo Dục, và Cô xong bằng Ph.D về Khoa Học Chính Trị, Thầy Cô trở về lại Việt Nam năm 1967. Đầu năm 1968, Thầy Lê Thanh Minh Châu được bổ nhiệm vào chức Viện Trưởng Viện Đại Học Huế. Dưới sự lãnh đạo của Thầy, Viện Đại Học Huế từ từ vươn lên sau biến cố Mậu Thân. Đội ngũ nhân viên giảng huấn có phần trẻ hơn nhưng đầy khả năng và nhiệt tình, tinh thần hiếu học và đoàn kết hơn bao giờ hết của tập thể sinh viên, đồng thời văn phòng sinh viên vụ hoạt động hữu hiệu, giúp sinh viên vui chơi lành mạnh và nối kết tình thân liên khoa, tất cả đã giúp góp phần cho sự vươn mạnh và thành công của Viện, thổi một nguồn gió mới đầy hứng khởi vào tất cả các phân khoa thuộc Viện ĐH Huế. Điều này chứng minh được Viện Đại Học Huế đã thoát qua được những khó khăn do cuộc chiến Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 khi mà đa số dân thị xã Huế phải di tản và Viện ĐH Huế tạm thời dời vào Đà Nẵng, vì Viện đã dựng được niềm tin vững mạnh khiến ban giảng huấn cùng các sinh viên nhanh chóng trở về lại Huế, vào lại các giàng đường và niên học không bị mất.

Tiệc Hội Ngộ ngày 15 tháng 5, 2022 tại nhà hàng Grand Garden, do anh chị Bs. Võ văn Cầu khoản đãi, có sự hiện diện của Thầy Cô Viện Trưởng Lê Thanh Minh Châu, bên cạnh các Thầy Cô trong Ban Giảng Huấn YKH và các Thầy Cô các phân khoa khác của Viện ĐH Huế, cùng quan khách thân thuộc và gần cả trăm cựu sinh viên YKH.

 

Thay Le Thanh Minh Chau 3
Thầy Lê Thanh Minh Châu trong buổi tiệc hội ngộ YKH Hải ngoại năm 2022

  

Để trả lời câu phỏng vấn “Xin Thầy cho chúng em biết bí quyết làm sao Thầy Cô, hiện tại đều trên 90 tuổi, vẫn sống mạnh, sống tốt đẹp và còn sống dài dài ngon lành như vậy?”, Thầy phát biểu như sau “Khi chúng tôi lấy nhau, chúng tôi phân chia rõ ràng: chuyện quan trọng sẽ do chồng quyết định – Chuyện không quan trọng sẽ do vợ quyết định. Vậy thì thế nào là chuyện quan trọng? Với tôi không thấy có chuyện nào quan trọng cả. Vì vậy mọi chuyện đều do nhà tôi quyết định”. Câu trả lời quá xuất sắc này đã được tưởng thưởng bằng những tràng pháo tay kéo dài gần cả một phút.

 

Buổi tiệc vui ngày hôm ấy cũng là lần anh chị em chúng tôi trong Hội YKH Hải Ngoại nhìn thấy Thầy và nghe giọng nói của Thầy lần cuối.

 
Theo tôi được nghe từ GS. Lê Đình Cai, Thầy Viện Trưởng là một trong trong những nhân vật cuối cùng rời Huế vào Đà Nẵng trước khi Huế bị mất vào tay CS. Thầy mang theo hy vọng và tinh thần sẵn sàng biến cải Đại Học Cộng Đồng Đà Nẵng (GS. Ngô Đồng), vốn trực thuộc Viện Đại Học Huế, thành một cơ sở tạm thời xử dụng cho Viện Đại Học Huế. Rất may mắn Thầy rời Đà Nẵng chỉ một ngày trước ngày 29 tháng 3, 1975, bằng đường biển cùng với GS. Lê Đình Cai.   
 
Trong lần Thầy Cô Lê Thanh Minh Châu tham dự Đại Hội YKH Hải Ngoại tại Montreal, tháng 8, 2018, Thầy có cho tôi biết thầy đã đến thăm Montreal từ đầu thập niên 50 khi còn đang học ở Luân Đôn. Và trong tình cờ, tôi chụp được hình Thầy Cô từ phía sau, tay trong tay, dẫn nhau đi lang thang trong một trung tâm thương mãi trong khi trời đang đổ mưa bên ngoài. Mỗi lần nhìn tấm hình này là mỗi lần tôi xúc động.
 
Nay Thầy đã khuất núi, bóng đêm đã đến, nắng cũng lùi xa – Như bao giọt nắng cuối ngày, cuối đời rồi cũng dần xa thôi! Tôi xin lấy hình ảnh mà tôi tình cờ chụp được Thầy Cô từ phía sau, thay cho lời kết, kèm theo mấy câu thơ, cùng lời cầu xin Chúa nhân từ cho linh hồn Gioan Baotixita được yên nghỉ muôn đời, và ánh sáng ngàn thu luôn soi sáng lên linh hồn Thầy.
 
Tôi cũng xin Chúa cho Cô Tăng Thành Trai, phu nhân Thầy Viện Trưởng Lê Thanh Minh Châu, tiếp tục sống an lành trong tình yêu thương của gia đình con trai. 
 Thần Lê Thanh Minh Châu 2
 Ngày nào đôi ta tay trong tay
 Sánh vai bên nhau bước chung đường
Cuối đời đành lìa xa em mãi
Nhớ ta em có nhớ ta chăng!?
 

Thầy quý mến,

Buổi chiều cùng ngày về lại Little Saigon sau chuyến tham dự thánh lễ Tưởng Niệm Thầy vào sáng thứ Bảy, 26 tháng 10, 2024, tất cả anh chị em trong Hội sẽ tụ tập tại nhà hàng Ngọc Sương để cùng nhau tỏ tình thân ái và nhớ đến di sản quý báu Thầy đã để lại cho bao ngàn cựu sinh viên xuất thân từ Viện Đại Học Huế.

Với lòng kính mến,

Em Vĩnh Chánh

Ngày 21, tháng 10, 2924




Ý kiến bạn đọc
05/11/202409:04:05
Khách
you mean 2024 instead of 2924
26/10/202417:18:22
Khách
Cảm ơn tác giả một bài viết hay.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 410,654
Hồ sơ bảo lãnh cho gia đình tôi, chú Khải gửi về từ năm 1978, nhưng mãi đến cuối năm 1982, khi ba tôi được thả ra khỏi "trại cải tạo" Vĩnh Phú, thì má tôi mới xúc tiến việc nộp đơn xin xuất cảnh, diện đoàn tụ gia đình. Ở vào thời điểm đó, khi những chuyến bay chính thức rời Sài Gòn đi Mỹ, Pháp, hay Canada hãy còn lác đác như lá mùa thu, thiệt tình mà nói ai trong nhà tôi cũng đều không thấy nhen nhúm một tia hy vọng nào cả. Đi vượt biên tốn năm ba cây vàng cho một đầu người mà còn bị bắt lên bắt xuống, đằng này cả gia đình tôi lại trông mong vào tờ giấy bảo lãnh để được đi chính thức cả nhà, nghe qua như chuyện thần thoại nghìn một đêm lẻ!
Phải chăng khi ta viết về một người chết là ta giúp cho người chết không bị thời gian lãng quên?! Là cho phép người chết sống lại, cho dù trên trang giấy trừu tượng, để cảm nhận người chết đang hiện hữu với ta, gần gũi với ta trong thương nhớ mà đôi khi lúc còn sống ta lại phần nào hững hờ vì không gian và thời gian không cho phép. Tuy chết là hết, nhưng có những cái chết bi hùng, chết “đẹp” đáng ngưỡng mộ. Là những cái chết khác lạ trong đời thường. Như của Harakiri, coup de grâce/phát súng ân huệ ngoài chiến trường, tự vận của những tướng quân hay tự sát tập thể với trái lựu đạn nổ giữa niềm uất hận không muốn buông súng. Nhiều cái chết rất bình thường xẩy ra trong giấc ngủ hay đột ngột do tai nạn, và thường nhất là cái chết do các bệnh nan y, đến từ từ, với nỗi sợ hãi và đau đớn cả thể xác lẫn tinh thần, cho người bệnh và thân nhân.
Những con vật được nuôi trong nhà, gọi chung là gia cầm thì con chó được loài người thuần hóa sớm nhất từ loài sói xám và được nhắc đến nhiều trong văn học từ cổ chí kim, từ đông sang tây với những từ ngữ ngọt ngào: trung thành, tình nghĩa, khôn ngoan, thân thiện... Nhưng không hiểu tại sao người Việt mình khi giận hờn nhau thường đem con chó ra chửi: “đồ chó,” “cái mặt chó,” “cái đồ chó đẻ!”. Lúc bực bội những chuyện ngoài đường, về nhà con chó chạy ra ngoắc đuôi mừng rỡ, ông chủ lại cho nó một đá cho hả giận… mặc dù nó chẳng có tội tình gì - nó cúp đuôi, tiu nghỉu chạy trốn - chẳng hiểu tại sao (?). Trong nhà vợ chồng cãi nhau, chó là con vật đầu tiên bị mang tai họa. Vì không biết làm sao cho bớt ấm ức, bèn đá con chó, chửi con mèo… Bởi thế, mới có thành ngữ “mắng chó chửi mèo” hay “chỉ chó mắng mèo” là vậy. Thật khốn khổ cho cuộc đời con chó!
Bạn bè rủ đi “Cruise” gần nửa tháng qua ba thành phố của tiểu bang Alaska và Canada. Tôi cảm thấy ông xã không được khỏe và bản thân mình cũng vậy, nên đang còn lưỡng lự. Nhưng L (ông xã) thúc giục tôi cố gắng chuyến này bởi khó có cơ hội đi cùng với bạn bè, còn ông thì không thích đi du lịch. Hèn gì mấy năm trước hai người đến bưu điện làm thẻ passport, ông nhất định không chịu làm nhưng lại thúc giục tôi tiến hành.
Hắn mỉm cười một mình. Hắn vừa nghĩ tới hai chữ “vu vơ” mà một tác giả dùng làm tựa đề cho loạt bài viết về văn chương trong một website văn học có uy tín. Lý do là vì hắn cũng đang vu vơ về việc viết văn. Bản thân hắn không quan trọng nên những gì thuộc về hắn cũng không quan trọng. Tất cả chỉ là...vu vơ.
Lần đó gia đình chúng tôi bay qua Texas để dự lễ ra trường High School của Kevin, thằng cháu, con trai út của ông anh Tư. Đại gia đình đi thành một phái đoàn, kéo đến hội trường của trường học, nhìn đám trẻ tưng bừng nhốn nháo, hớn hở vui cười, gọi tên nhau í ới, lòng tôi cũng vui theo. Chương trình bắt đầu, cả hội trường im phăng phắc, sau các thủ tục ban đầu, các bài phát biểu của các thầy cô giáo, hiệu trưởng, là phần phát biểu cảm tưởng của người thủ khoa, valedictorian. Đó là một cậu bé Mỹ da trắng, cao ráo, khuôn mặt sáng sủa, có nụ cười thật dễ mến...
Hồi mới qua Mỹ, tiếng Mỹ dở ẹt mà Bách cũng lấy được bằng lái xe hơi trong vòng ba tuần từ ngày đặt chân xứ này. Tuần đầu lo thủ tục giấy tờ thẻ an sinh, thẻ căn cước. Tuần thứ hai đậu viết, tuần thứ ba đậu lái. Nhanh thần tốc. Thế mà sau 30 năm ở Mỹ, hắn phải thi viết hai lần, thi lái bốn lần mới đậu bằng lái xe mô-tô 1.000 phân khối Harley-Davidson. “Anh mướn cái mô-tô nhỏ 300 cc thôi cho dễ thi. Có $20 một ngày à,” người giám thị DMV vừa khuyên vừa an ủi hắn. “Hoặc anh vào trường học có $400 đô một khoá ba tuần rồi thi ở đó luôn cho dễ.” “Thank you chị nhưng đậu bằng xe nhỏ rồi chạy xe lớn chỉ có chết sớm. Tôi sẽ thi lại cho đến khi đậu.”...
Ông bà có cả thảy 9 người con. Không may, anh Tư và anh Tám mất sớm. Chị Bảy lúc nhỏ, hay bị giật kinh phong. Càng ngày, biến chứng càng trầm trọng, trở thành thần kinh, phải cho vào bệnh viện tâm thần. Cũng may, những người con còn lại đều thành đạt, nên ông bà cũng được an ủi, và đỡ cảm thấy bứt rứt khi nghe miệng đời dèm pha: “Nhà đó chắc thất đức lắm, nên con cái mới bị vậy.”
Tôi chẳng rõ hình ảnh chiếc Xích Lô len vào tâm trí tự hồi nào; lại khiến lòng tôi xao xuyến trong lần đầu nhìn loại xe đạp ba bánh này trưng bày bên ngoài một cửa hàng chuyên bán nước mía, trong khu thương mại khá sầm uất tại Little Saigon quận Cam, sau bao năm sống xa đất nước. Sau này tôi thấy ở nhiều nơi khác nữa, như ở khu mua sắm Hong Kong, trên đường Bellaire, tên Việt là đại lộ Saigon bên Houston Texas. Nơi đây có tới hai chiếc Xích Lô đặt trang trọng trước một siêu thị thật lớn, người đi qua đi lại thường dừng bước nhìn ngắm, hay chụp vài tấm ảnh. Rồi còn bao nhiêu chiếc Xích Lô sáng loáng, nhỏ nhắn xinh xinh được trưng bày ngày một nhiều thêm nơi phòng khách trong các ngôi nhà bạn hữu tôi từng có dịp ghé thăm. Tôi cảm thấy Xích Lô giống một thứ gì thân thương của người Việt Nam như lũy tre làng, con trâu, luống cày, chiếc xuồng ba lá,…
Cả đám đang tán gẫu cười đùa rôm rả, chợt im bặt khi thấy bóng thằng Edgar đang từ xa xăm xăm đi đến. Nó dẫn một khứa lão mới toanh tới và giới thiệu: - Hey Steven, đây là ông Robert, từ hôm nay ông ấy sẽ nhập với nhóm của anh. Mọi người bắt tay và tự giới thiệu tên mình với ông Robert. Steven cũng bắt tay ông ấy, điều đầu tiên gây ấn tượng nhất là đôi mắt ông Robert sáng quắc, sáng trưng trên gương mặt đen như hắc ín, chưa bao giờ mà Steven thấy một người da đen nào có đôi mắt sáng đến như thế. Cánh mũi thì giống hệt cặp sừng con trâu rừng, đôi chân bước đi hơi khập khiễng. Ông Robert cao hơn Steven cả một cái đầu, tướng tá săn chắc và gọn gàng chứ không ồ ề ục ịch như tụi thằng Kasame, thằng Gred...Ông Robert tiếp xúc với công việc và nhanh chóng tiếp thu, chỉ một buổi là làm thành thạo như mọi người.
Nhạc sĩ Cung Tiến