Hôm nay,  

Tìm Một Người Mất Tích

29/04/202413:34:00(Xem: 4442)

 bo sach vvnm

 

Tác giả Lê Đức Luận lần đầu tham dự VVNM với bài “Ngẫm ra mới thấy thèm”. Tốt nghiệp Khóa 1 Trường ĐH/CTCT/ Đà Lạt, trước năm 1975 ông là sĩ quan, làm việc trong Ủy Ban Binh Thư - Tổng Cục/CTCT/QL VNCH – Sài Gòn. Sau năm 1975 Ông bị “tập trung cải tạo” 7 năm. Sang Mỹ năm 1986. Tác giả vừa nhận giải Danh Dự năm 2023.

 

*

Hôm ấy, một buổi chiều cuối thu, trời trong và se lạnh. Một ông già râu tóc bạc phơ, ước chừng vào tuổi tám mươi, ngồi đăm chiêu trên ghế đá công viên, gần Viện dưỡng lão Mission De La Casa ở thành phố San José - lặng lẽ nhìn lá vàng rơi…

 

Bỗng từ xa, một thằng bé khoảng chín, mười tuổi chạy đến nắm tay ông, hỏi:

- Ông ngoại ơi! Sao ông ngồi đây một mình, có vẻ buồn thế?

- Ờ! Ông chỉ có một mình.

 

Từ ngày ông ngoại thằng bé qua đời, nó thường ra đây tìm lại bóng hình ông ngoại. Trông xa, hễ thấy ông già nào râu tóc bạc phơ là nó chạy đến nắm tay thân mật kêu lên: “ông ngoại!” Tiếng kêu đó hình như làm nguôi ngoai nỗi nhớ thương… lúc nào cũng đầy ắp trong tâm hồn nó. 

 

Thằng bé liến thoắng, dễ thương, vào trạc tuổi cháu ngoại của ông - nhưng mấy năm nay ông không được gặp. Một thoáng xúc động, ông già thân mật hỏi:

- Giờ này chiều rồi, sao con không ở nhà học bài hay giúp việc cho mẹ con mà ra đây làm gì cho lạnh.

- Con ra đây mỗi chiều Thứ Bảy, Chủ Nhật - hy vọng gặp lại ông ngoại của con.


Hơi ngạc nhiên, ông già hỏi:

- Sao lại ra công viên tìm ông ngoại? Ông ngoại không ở chung với cha mẹ con à?


Hai giọt nước mắt lăn trên má, thằng bé thút thít, khóc! Nó mếu máo, nói:

- Ông ngoại con chết rồi!


Im lặng! Nghẹn ngào!

Sự ngây thơ của thằng bé làm ông già cảm thấy ngậm ngùi, ông bảo:

- Chết rồi thì âm dương ly biệt - ông ngoại con không còn ở trên trần gian này nữa đâu mà tìm.

- Nhưng đêm đêm, ông ngoại về trong khi con ngủ, sáng dậy ông ngoại đi đâu mất tiêu. Con đoán: có lẽ ông ngoại đang lang thang trong công viên này.Thằng bé vừa nói vừa khóc sụt sùi… Ông già rưng rưng, xoay người ôm thằng nhỏ vào lòng - im lặng!


Ông thầm nhủ: Làm sao nó hiểu được cái vô thường trong kiếp nhân sinh(?).

Nắng chiều đã tắt. Sương thu lãng đãng phủ mờ cánh rừng thông phía trước. Lá vàng nơi các cây phong cổ thụ tiếp tục rời cành, chao trong gíó. Công viên không còn ai lai vãng. Cảnh vật chung quanh mờ nhạt, hắt hiu…Một già, một trẻ lặng lẽ ôm nhau trên ghế đá công viên, như đang thả hồn về với quá khứ đau buồn.

 

Bỗng tiếng chuông nhà thờ vang lên rồi loãng ra trong buổi chiều tà.


Thằng nhỏ ngước lên, thấy những giọt nước mắt lăn trên đôi má nhăn nheo của ông già. Nó nắm tay ông già, lắc nhẹ…, khẽ hỏi:

-Sao ông lại khóc?

-Ông đang nghĩ đến “cái sự đời”.

- Cái sự đời là gì vậy ông? Khi ông ngoại còn sống, hay nói: “cái sự đời” nhưng con không hiểu nó ra làm sao?

-Sự đời là cái vui, buồn, sướng, khổ; là cái phù du, bất định; là cái chết và sự sống; là cái mơ hồ mộng tưởng và cái thực tế phũ phàng… Bây giờ, con chưa hiểu hết được đâu, lớn lên con sẽ thấu hiểu “cái sự đời”.

 

Không biết bao nhiêu lần ông già đã kể “cái sự đời” bi thảm của đời ông cho những người ở trong viện dưõng lão, cho bạn bè và cho những ai ông gặp. Tựu trung có ba điều sầu thảm giày xéo tâm can ông: thứ nhất là cái sầu mất nước, thứ hai mất vợ, thứ ba là không được ở cùng con gái để vui chơi với thằng cháu ngoại mà ông thương yêu hết mực và quý như vàng!

 

Bởi vậy, ông luôn luôn biểu lộ nỗi buồn hiu hắt trên khuôn mặt già nua. Những người trong Viện dưỡng lão gán cho ông cái tên: “Ông Ba Sầu”. 

 

Hôm nay, ông Ba Sầu gặp thằng bé - bổn cũ soạn lại… ông không cần biết nó có hiểu và có thích nghe chuyện đời bi thảm của ông hay không - ông cứ kể:

“Sau năm 1975, Cộng sản bắt ta vào trại cải tạo - cơ cực, nghiệt ngã! Đêm đêm, trong phòng giam, từ chỗ ngủ của mình, ta nghe một người bạn tù hô lên: “về Sài Gòn anh em ơi!” Lúc ấy, ta chỉ mơ được về Sài Gòn sum họp với gia đình là thõa nguyện lắm rồi.

“Thế mà qua chương trình HO, ta được định cư trên nước Mỹ - tự do và sung túc… Nhưng trong tim ta vẫn ngậm ngùi: mang nỗi sầu mất nước! Cuộc đời như giấc mộng!

“Rời bỏ quê hương, ta đem vợ và đứa con gái thân yêu sang đây, tưởng rằng đời ta sẽ được hạnh phúc, ấm no… Nhưng chỉ được mấy năm, vợ ta qua đời sau cơn bạo bệnh - ta hụt hẫng! Cuộc sống thật vô thường!

“Ta sống trong cảnh cô đơn - gà trống nuôi con! Sau khi con gái ta học xong đại học - nó ra trường, có việc làm tốt. Tưởng rằng cha con sẽ nương tựa vào nhau để sống, nhưng sau đó nó lấy chồng người Mỹ, sinh đứa con trai đầu lòng. Ta được bồng bế đứa cháu ngoại, ta hạnh phúc vô cùng… Nhưng khi được ba tuổi, cha mẹ nó lên Tiểu bang Virginia, vì theo công việc. Ta muốn đi theo, nhưng thằng chồng con gái ta không ưng, viện cớ trên đó lạnh lẽo…

“Vợ chồng nó sắp xếp cho ta vào Viện dưỡng lão Mission De La Casa. Xa thằng cháu ngoại ta buồn đứt ruột… Nhưng cũng đành! Con gái ta an ủi, hứa rằng: sẽ đưa thằng cháu ngoại về thăm ta hằng năm, nhưng sáu, bảy năm nay, chúng nó chỉ về thăm ta có một lần - ngoài ra ta chỉ trông thấy hình hài thằng cháu ngoại trên cell phone. Nó không nói được tiếng Việt. Nó xem ta như người xa lạ… Nó không hiểu được lòng ta yêu nó là dường nào! Năm nay nó cũng vào trạc tuổi của con. Tình đời bạc bẽo lắm! Con ơi!”

 

Ông già rưng rưng nước mắt, than:

- Đời ta thật bất hạnh, cô đơn!

 

Thằng nhỏ không có vẻ gì xúc động, ráo hoảnh, nói:

- Cuộc đời của ông buồn thật, nhưng không bi thảm bằng ông này đâu.

 

Nó rút trong túi ra một tờ rơi (flyer) đưa cho ông Ba Sầu xem. Ông đã biết mọi chuyện. Chiều nay ông ra đây cũng để mong được gặp lại người bạn cố tri này. Nhưng ông không nói ngay cho thằng nhỏ biết - lặng lẽ nhìn lá vàng rơi! Và ông đang nghĩ về người bạn tâm giao, một thằng bạn cùng khóa, cùng trường - cần cù, nhẫn nại, siêng năng, có nhiều sáng kiến; sống chân thật và sòng phẳng với bạn bè và có tinh thần trách nhiệm trong mọi công việc…

 

Ấy thế, mà đời hắn lắm nỗi gian truân!

 

Nếu như Nam Cao, Thế Lữ sống lại, nhìn cuộc đời của hắn mà viết nên truyện ngắn thì có thể bi thảm hơn cuộc đời của “Lão Hạc”, “Nhà Mẹ Lê” gấp nhiều lần.

 

Ba Sầu biết hắn từ cái đêm liên hoan đầu tiên trên đồi 4648 ở Đà Lạt. Đêm ấy, tất cả SVSQ tập hợp chung quanh đống củi xếp ở lưng đồi, bên hông Bộ Chỉ Huy doanh trại. Đêm liên hoan có vẻ như đêm lửa trại của thời học trò hơn là một buổi lễ được tổ chức trong quân trường. Khi vị Chỉ Huy Trưởng và quan khách đến - đứng vào vị trí - tiếng vỗ tay vang vang… rồi từ trên cao, trong màn đêm dầy đặc sương mù, một ngôi sao từ trên trời rơi ngay vào giữa đống củi - nổ “bùm!”- ánh lửa bùng lên phừng phực trong đống củi thông… thắp sáng lưng đồi và ấm cả không gian. Tiếng reo hò vang dội…

 

Ai đã làm nên cái cảnh ngoạn mục này? 

- Chính là SVSQ Nguyễn Văn Duyến!

 

Đó là kỷ niệm đầu đời quân ngũ - hắn được bạn bè đồng khóa mến mộ và Ba Sầu kết bạn tâm giao với hắn từ đấy.

 

Nhưng cũng trong bước đầu quân ngũ, hắn mang mối hận suốt đời do cái la bàn gây nên cớ sự (sẽ kể lý do tại sao trong phần sau).

Ba Sầu nhớ lại cái thời: Cả một thế hệ thanh niên đã hy sinh tuổi thanh xuân cho một cuộc chiến tranh “không cần thiết” - do các lãnh tụ cộng sản cuồng tín của Miền Bắc gây nên - để bảo vệ nền tự do cho Miền Nam.

 

Bạn bè cùng khóa với Duyến, ai cũng phải trải qua: gian nguy nơi chiến trận, khổ nhục trong lao tù, khó khăn bước đầu trên đất khách… Kể sao cho xiết! Nhắc đến, lại thấy đau lòng!

 

Khi đến được miền đất hứa - có nhiều cơ hội để vươn lên mà Thượng Đế đã dành cho những kẻ khốn cùng. Họ xây dựng lại cuộc đời từ hai bàn tay trắng để tìm cuộc sống ấm no, hạnh phúc và tự do cho gia đình và tương lai con cháu.

 

Nhưng với Duyến thì không! Suốt cuộc đời cứ mãi gian truân trong nghèo khó, chỉ hưởng được cái tự do để “chửi đổng!”

 

Bây giờ thì mất tích - không ai biết Duyến ở nơi mô và sống chết thế nào?

 

Ba Sầu ngậm ngùi nhớ lại cuộc đời gian truân của người bạn tâm giao: Ra trường, Duyến chọn về Sư đoàn 5 Bộ Binh. Sau hai năm tác chiến, Duyến được thuyên chuyển về trường Mẹ, giữ chức Đại đội trưởng SVSQ. Nhưng tính tình xề xòa, không thích hợp với chức vụ nên được chuyển qua khối Quân Huấn Vụ - dạy địa hình. Oái oăm thay cái sự đời! Ngày mới vào quân ngũ cái la bàn (địa bàn) làm hắn ôm hận suốt đời, bây giờ ngày nào hắn cũng ôm cái la bàn.

 

Một câu chuyện dài dòng: Trong khi học môn địa hình ở trường Bộ Binh Thủ Đức (SVSQ/CTCT được gởi học cơ bản quân sự bốn tháng nơi đây, cùng với Khóa 24, trước khi lên trường chính ở Đà Lạt) , mỗi SVSQ được phát một cái la bàn, hết giờ học phải nộp lại. Nhưng khi hết giờ học, huấn luyện viên kiểm tra thấy thiếu một cái, bảo SVSQ tìm khắp nơi, nhưng không thấy. Ông ta cho lục soát trong ba lô của mỗi SVSQ, để xem anh nào đã “thó”. Duyến nộp rồi, nên yên chí ngồi nghỉ ngơi. Nhưng oái oăm thay: cái la bàn nằm trong ba lô của Duyến! Duyến ngỡ ngàng, ngơ ngác - “thanh minh thanh nga”... thề sống chết! Thì ra, tên phải tội là thằng bạn kế bên nhanh tay bỏ cái la bàn vào ba lô của Duyến. “Tình ngay lý gian!” Nhưng Sĩ quan huấn luyện viên cho qua - chẳng phạt vạ gì…

 

Nhưng Duyến cảm thấy nhục…và để lại trong lòng hắn mối hận suốt đời. Từ đó, cái tình “huynh đệ chi binh” chết hẳn trong lòng Duyến và nghi ngờ sự tử tế của mọi người. Hắn luôn có những lời cay cú, ngang phè với bạn bè cùng khóa.

 

Như hôm, hay tin Duyến bị ung thư mũi (?) anh em cùng khóa đến thăm. Hắn chẳng xúc động và cảm ơn mà buông lời phũ phàng: “Tụi bay nghe tao bịnh, đến phúng điếu đó hả?”.

Một chuyện khác cũng rất buồn cười: Khi biết vợ Duyến là em ruột của một người khoá đàn em, anh bạn cùng khóa với Duyến hỏi chơi: “Ra ngoài, thằng anh vợ gọi mày là niên trưởng, vậy về nhà mày gọi nó là gì?” - “Gọi gì kệ cha tao! Mày hỏi làm gì?”

 

Đó là ngôn ngữ của Duyến đối với bạn bè cùng khóa, làm một số anh em phiền trách. Nhưng “trách vẫn trách mà thương vẫn thương!”

 

Ba Sầu nhớ lại cái thuở mới ra tù: đứa nào cũng rách như xơ mướp… nhưng cố bám bám lấy thành phố. Riêng Duyến lên tận vùng núi rừng Long Khánh - đốt than, đốn củi - khổ nhọc nhưng kiếm chẳng được bao nhiêu tiền lại mang bệnh sốt rét - thân tàn ma dại! Đúng là: “Ma đưa lối, quỷ đưa đường/ Cứ tìm những lối đoạn trường mà đi…” (ND)

 

Một người đàn em khoá 2 thấy vậy đem về nuôi ăn, nuôi ở…Ngày ngày chỉ có công việc lái xe Honda, đưa vợ anh khoá 2 này đi giao hàng và thu tiền. Một chuyện mới nghe thì cười, nhưng ngẫm ra mới thấy thảm: khi vợ anh khóa 2 vào gặp khách hàng, Duyến dựng xe chờ bên ngoài. Người khách hàng trông thấy Duyến, bèn hỏi: “Ông già của chị đó hả?” - “Không, anh ta là bạn của chồng tôi.” Ôi! Lúc đó Duyến chưa đến tuổi bốn mươi.

 

Thế mới biết: Duyến đã tàn tạ đến mức nào trong những ngày cơ cực ở núi rừng Long Khánh!

Thời gian trôi qua, cũng chính người đàn em khóa 2 này đứng ra tổ chức đám cưới cho Duyến. Một cái đám cưới nghe như chuyện “phong thần!”. Vậy mà thực sự đã diễn ra vừa xúc động vừa xôm tụ: Chàng rể không có nhà, phải mượn căn nhà của một ông cựu Thiếu tá - rộng rãi để rước dâu và  mời khách. Các bà vợ của các bạn cùng khóa đến trang hoàng, sửa soạn bữa tiệc cưới khá xôm tụ vào cái thời “gạo châu củi quế…” và bọn công an khu vực luôn theo dõi sinh hoạt của đám “ngụy quân, ngụy quyền” mới ra tù. Ấy vậy mà đám cưới được ông cựu Đại tá Chỉ Huy Trưởng của trường đứng ra làm chủ hôn - có cả ông Chỉ Huy Phó cùng mười lăm anh em Khóa 1, hai mươi anh em Khóa 2, một số đàn em Khóa 3, Khóa 4 và quý phu nhân tham dự.

 

Như vậy, coi như huy hoàng trong thời mạc vận! Mấy ai có được cái vinh dự như thế!

Có một giai thoại cười ra nước mắt (!?), do vài anh bạn kể lại: Trước ngày đám cưới, Duyến trốn ra từ bệnh viện - tấm thân tiều tụy, mũ áo xác xơ, chân mang dép xẹp… Anh em xúm nhau “tân trang” chú rể để ra chụp hình với cô dâu và quan khách. Tấm hình khá đẹp, chú rể tươi vui!

 

         Sau đám cưới, vợ chồng dắt díu nhau về khu Xóm Mới Gò Vấp, cắt rau muống đem bán cho dân “Bắc Kỳ hai nút”* - bấy giờ tràn ngập Thành Hồ. Công việc nhọc nhằn: buổi sáng chồng kéo, vợ đẩy…chiếc xe ba gác chở mấy cần xế rau muống đi vào thành phố bán - chiều về chỉ đủ cho bữa cơm độn khoai với rau muống chấm tương. Nhưng thôi cũng đành! Vì thời đó, đám công dân hạng bét là “ngụy quân, ngụy quyền” mới ra tù - ai mà chả khổ!

 

Chuyện đến tai “Anh Sáu Vẹc Ni”, một người bạn cùng khóa và cùng phục vụ ở SĐ5BB. Anh này khởi nghiệp nhờ bán vẹc ni ở Ngả Tư Bảy Hiền mà trở nên giàu có, đã tìm đến Duyến, rủ về làm trong lò nấu rượu cồn của anh ta. Sáu Vẹc Ni rất tốt bụng, luôn luôn giúp đỡ các bạn đồng môn… Với Duyến, dĩ nhiên có ưu đãi đặc biệt. Cuộc sống của Duyến bớt khổ và tương đối đầy đủ hơn.

Nhưng chỉ được thời gian, công việc làm ăn của Sáu Vẹc Ni đi xuống vì Liên Xô không nhập rượu cồn nhiều như trước. Một hôm, vợ Sáu Vẹc Ni vô tình nói chơi: “Từ ngày có mặt ông Duyến, công việc làm ăn cứ ì ạch…”

 

Thế là Duyến lặng lẽ ra đi, không lời từ giã.

 

Sáu Vẹc Ni tìm kiếm khắp nơi để kéo Duyến về, vì Duyến là bạn cùng khóa và là một tay đắc lực, giúp Sáu Vẹc Ni nhiều việc. Rồi một hôm gặp nhau trong chợ Tân Bình, Duyến đang ngồi bán quần áo cũ, Sáu Vẹc Ni năn nỉ, bảo Duyến trở về. Nhưng Duyến nhất định không nghe.

Sáu Vẹc Ni than: - Cái thằng tự ái to bằng Trời - “Nói ngọt không ưa, nói vừa không chịu!”

 

Rồi chương trình HO cứu vớt đời Duyến! Một anh bạn cùng khóa bảo trợ Duyến sang Nam CA.

Đa số anh em trong diện HO, bước đầu trên đất khách, ai cũng đi làm “thợ đụng” (đụng việc gì làm việc đó). Ba Sầu nhớ lại: qua thời “thợ đụng” thì mua được xe, kiếm được nhà ở. Còn thằng Duyến - lạ lùng thay: “đụng” đâu “bể” đó! Cuộc sống cứ lêu bêu…

 

Một anh bạn khác, cũng cùng khóa với Duyến, thấy vậy, rủ Duyến về Louisana - nơi cá biển, tôm đầm… bám trụ một thời gian, nhiều người trở thành triệu phú, như anh bạn của Duyến chẳng hạn. Thế mà Duyến bỏ một nơi có nhiều cơ hội tốt để tìm cuộc sống ổn định. Duyến về San Jose. 

 

Ở đây, được một người bạn cùng khóa nữa giúp đỡ: hướng dẫn chia xẻ công việc cắt cỏ. Công việc này, lúc đầu xem qua tưởng là “làm chơi” mà về sau trở thành “ăn thiệt” - đã giúp bao nhiêu người Việt nên cơ nghiệp. Duyến cũng thế - nghề cắt cỏ giúp Duyến mua được cái Mobile Home. Rồi sau đó bắt được cái job - lái xe cho trường học (School bus driver) - cái nghề, tuy không phải là sang cả, nhưng với anh em HO - lỡ thầy, lỡ thợ, lỡ culi… thì đó là cái Job thơm!

 

Anh em đồng môn mừng cho Duyến và nghĩ rằng Duyến đã qua khúc sông định mệnh bần cùng. Đời sẽ lên hương! Nhưng không hiểu lý do gì mà sau đó Duyến không giữ được nhà, mất luôn cả cái Job thơm?

 

Một ngày nọ, người ta thấy Duyến bày một cái bàn nhỏ ở góc chợ trời San Jose - làm nghề cắt chìa khóa. Nghề này do người đàn em Khóa 2 huớng dẫn và giúp đỡ mua đồ nghề.

 

Ai làm nghề này cũng kiếm sống được, nhưng với Duyến chẳng khác Ông Đồ Già của Vũ Đình Liên:

 

               Mỗi khi chợ trời mở/ Lại thấy ông Việt Nam

               Bày đồ nghề cắt khóa/Bên chợ đông người qua

               Bao nhiêu người thuê cắt/ Tấm tắc khen khéo tay

               Nhưng mỗi ngày một vắng/ Người thuê cắt nay đâu?

               Máy cắt buồn không mở/ Mẫu khóa treo lung lay

               Ông già vẫn ngồi đó/ Khách qua đường không hay

               Năm nay chợ trời mở/ Chẳng thấy ông già đâu!?…

                

Người ta thường ví von rằng: “Ở Mỹ - đói và làm giàu khó ngang nhau.” Đúng là như vậy! Duyến không đói nhưng đã bước xuống nấc thang cuối cùng trong xã hội Mỹ - được cơ quan An Sinh Xã Hội cấp cho nhà ở (housing) và nhu yếu phẩm vừa đủ sống - trừ phi, Duyến muốn đọa đày đời mình để tìm “cái thú đau thương” của nhân loại mới bi thảm hơn mà thôi.

 

Ba Sầu xem xét thằng bạn tâm giao không có ý tưởng đó. Cứ xem cách đặt tên cho đứa con trai đầu lòng với người vợ cả (đã qua đời khi Duyến ở trong tù) thì biết hắn vẫn có những ước mơ đầy tham vọng: Nguyễn Kỳ Đại Thức.

 

Ba Sầu thương cho số phận người bạn tâm giao đã ở nấc thang cuối cùng trong xã hội, vẫn chưa yên thân - người vợ (cưới sau ngày ra tù)  bị ung thư ngực, lại mất trí (alzheimer) phải đưa vào nursing home. Duyến ở nhà đâm ra lẩn thẩn…Bấy giờ cơ quan An Sinh Xã Hội cung cấp mỗi ngày hai bữa ăn, có người mang đến tận nhà. Một hôm người đưa cơm phát hiện: Duyến không có mặt ở trong nhà - đã đi đâu… mất tích!

 

Ba Sầu thở dài… thầm hỏi: Hắn sinh ra đời nhằm ngôi sao xấu hay lòng lành của Chúa đã lãng quên?

 

Thằng bé thấy ông già cứ ngồi bất động, thẫn thờ … nó sốt ruột lay tay ông, nói nhỏ:

- Ông có thấy: người ta treo giải thưởng năm ngàn đô la cho ai tìm được ông Duyến? Ông cháu mình cùng đi tìm nghe ông. Tiền sẽ chia đôi.

- Ờ! Nếu tìm ra, ông sẽ cho con lãnh hết.

- Không được! Như thế không fair.


Sợ thằng nhỏ mất hứng, bỏ cuộc, ông Ba Sầu gật đầu, nói:

- Ờ! Thì chia đôi.

Tấm lòng ngay thẳng của thằng nhỏ làm Ba Sầu nghĩ về nền giáo dục ở Mỹ mà nó được hấp thụ - Cái gì cũng sòng phẳng. Ông ôm chặt nó vào lòng, nói:

- Vậy, ngày mai chúng ta bắt đầu đi tìm. Nhưng con phải xin phép cha mẹ con trước và sáng mai cha hoặc mẹ con dẫn con ra đây gặp ông mới được.

- Dạ! Dễ thôi! Ba con biết ông Duyến mà. Lúc trước, khi ông ngoại con còn sống, thỉnh thoảng ông Duyến có sang chơi. Ông ngoại con thường nói: “Thời trai trẻ, ông Duyến ngon lành lắm: Cả hai ngàn người dự thi vào một trường ở Đà Lạt - ông ngoại con cũng dự thi - nhưng rớt! Ông Duyến được đậu trong số hai trăm người được tuyển chọn.” Qua đây, ông Duyến lái xe School Bus - ổng có cái oai nghe ông - mỗi khi tụi con ồn ào nghịch phá, ông hét một tiếng như trời gầm là tụi con hết hồn, êm re, chẳng đứa nào dám hó hé! Nhưng có khi ổng rất dễ thương, thân mật và phát kẹo cho tụi con. Bọn học sinh Mỹ và Mễ thường gọi lén: “Crazy old man!”

Đèn công viên bật sáng. Ông già chia tay thằng nhỏ, lửng thửng đi về phía nhà dưỡng lão. Thằng bé theo ngã rẽ về nhà. Hẹn ngày mai gặp lại để thực hiện cuộc “Tìm Người Mất Tích”.

 

Những ngày Thứ Bảy, Chủ Nhật và ngày lễ - một già, một trẻ lang thang đây đó - trong thành phố rồi ra ngoại ô -  tìm kiếm ông Duyến… chủ yếu đi vào những nơi có đông người homeless.

Ba tháng trôi qua, sự tìm kiếm không có kết quả!

 

Nhưng trong cuộc tìm kiếm này giúp Ba Sầu ngộ được ý nghĩa của hai chữ “tự do và hạnh phúc”:

Ai bảo những người homeless bất hạnh? Chưa chắc đúng đâu! Đi vào sinh hoạt của người homeless: thăm hỏi, chuyện trò… Ba Sầu nhận thấy: Tuy mỗi người một cảnh ngộ …và tùy duyên mà định phận… nhưng họ là những người đã tìm được sự tự do tuyệt đối và hạnh phúc đích thực cho cuộc đời mình.

 

Mấy ông lãnh tụ chính trị thường bảo: sẽ đem lại tự do và hạnh phúc cho  mọi người dân, đều là tán phét! Vì tự do và hạnh phúc đến từ cảm nhận tự phát trong con tim, khối óc của mỗi con người.

 

Ngày cuối cùng sau ba tháng tìm kiếm, ông Ba Sầu ngậm nguì nói với thằng nhỏ:

- Có lẽ ông ta sinh ra đời nhằm ngôi sao xấu và lòng lành của Chúa cũng đã lãng quên. Chỉ còn lại cái tình người… mà tình người đối với ông ta đến thế là cùng rồi, con ạ!

- Chúng ta đành bỏ cuộc sao ông? Thằng bé hỏi.

- Ừ! Cũng đành thôi con ạ!

- Nhưng nếu hôm nào, gặp được ông Duyến, dẫn ổng về, mình có nhận được tiền thưởng, không ông?

- Chuyện đó, con hỏi Hội Ái Hữu của ông ta, ông không biết!!!

 

Một già, một trẻ chia tay nhau trong nỗi ngậm ngùi!*

 

LÊ ĐỨC LUẬN

 (10 Tháng 2/2024)

 

*Người Bắc vào miền Nam sau năm 1975.

*Chúng tôi viết truyện này là chuyện có thật - những mong bạn đọc nào biết được trường hợp tương tự xin vui lòng liên lạc với người viết (703-216-2971) để giúp chúng tôi tìm được “Một Người Mất Tích”.

 

Ý kiến bạn đọc
13/07/202421:43:23
Khách
Cảm ơn Tác Giả một bài viết hay.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 409,559
Trong xã hội, từ thuở dựng nước, tiền nhân đã đặt người làm thầy vào vị trí rất cao trọng, chỉ sau vua, trong thứ tự Quân Sư Phụ. Với tôi, người làm thầy mang một thiên chức cao cả, vì người làm thầy có thể giúp định hình tương lai cho nhiều thế hệ tiếp nối. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình có thân mẫu là người cả đời chỉ biết đến phấn trắng, bảng đen, có thân phụ vừa là sĩ quan quân đội vừa là huấn luyện viên của Cục Chính Huấn, trực thuộc Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, nên tình yêu dành cho việc giảng dạy đến với tôi thật tự nhiên, thật nhẹ nhàng....
Hồ sơ bảo lãnh cho gia đình tôi, chú Khải gửi về từ năm 1978, nhưng mãi đến cuối năm 1982, khi ba tôi được thả ra khỏi "trại cải tạo" Vĩnh Phú, thì má tôi mới xúc tiến việc nộp đơn xin xuất cảnh, diện đoàn tụ gia đình. Ở vào thời điểm đó, khi những chuyến bay chính thức rời Sài Gòn đi Mỹ, Pháp, hay Canada hãy còn lác đác như lá mùa thu, thiệt tình mà nói ai trong nhà tôi cũng đều không thấy nhen nhúm một tia hy vọng nào cả. Đi vượt biên tốn năm ba cây vàng cho một đầu người mà còn bị bắt lên bắt xuống, đằng này cả gia đình tôi lại trông mong vào tờ giấy bảo lãnh để được đi chính thức cả nhà, nghe qua như chuyện thần thoại nghìn một đêm lẻ!
Phải chăng khi ta viết về một người chết là ta giúp cho người chết không bị thời gian lãng quên?! Là cho phép người chết sống lại, cho dù trên trang giấy trừu tượng, để cảm nhận người chết đang hiện hữu với ta, gần gũi với ta trong thương nhớ mà đôi khi lúc còn sống ta lại phần nào hững hờ vì không gian và thời gian không cho phép. Tuy chết là hết, nhưng có những cái chết bi hùng, chết “đẹp” đáng ngưỡng mộ. Là những cái chết khác lạ trong đời thường. Như của Harakiri, coup de grâce/phát súng ân huệ ngoài chiến trường, tự vận của những tướng quân hay tự sát tập thể với trái lựu đạn nổ giữa niềm uất hận không muốn buông súng. Nhiều cái chết rất bình thường xẩy ra trong giấc ngủ hay đột ngột do tai nạn, và thường nhất là cái chết do các bệnh nan y, đến từ từ, với nỗi sợ hãi và đau đớn cả thể xác lẫn tinh thần, cho người bệnh và thân nhân.
Những con vật được nuôi trong nhà, gọi chung là gia cầm thì con chó được loài người thuần hóa sớm nhất từ loài sói xám và được nhắc đến nhiều trong văn học từ cổ chí kim, từ đông sang tây với những từ ngữ ngọt ngào: trung thành, tình nghĩa, khôn ngoan, thân thiện... Nhưng không hiểu tại sao người Việt mình khi giận hờn nhau thường đem con chó ra chửi: “đồ chó,” “cái mặt chó,” “cái đồ chó đẻ!”. Lúc bực bội những chuyện ngoài đường, về nhà con chó chạy ra ngoắc đuôi mừng rỡ, ông chủ lại cho nó một đá cho hả giận… mặc dù nó chẳng có tội tình gì - nó cúp đuôi, tiu nghỉu chạy trốn - chẳng hiểu tại sao (?). Trong nhà vợ chồng cãi nhau, chó là con vật đầu tiên bị mang tai họa. Vì không biết làm sao cho bớt ấm ức, bèn đá con chó, chửi con mèo… Bởi thế, mới có thành ngữ “mắng chó chửi mèo” hay “chỉ chó mắng mèo” là vậy. Thật khốn khổ cho cuộc đời con chó!
Bạn bè rủ đi “Cruise” gần nửa tháng qua ba thành phố của tiểu bang Alaska và Canada. Tôi cảm thấy ông xã không được khỏe và bản thân mình cũng vậy, nên đang còn lưỡng lự. Nhưng L (ông xã) thúc giục tôi cố gắng chuyến này bởi khó có cơ hội đi cùng với bạn bè, còn ông thì không thích đi du lịch. Hèn gì mấy năm trước hai người đến bưu điện làm thẻ passport, ông nhất định không chịu làm nhưng lại thúc giục tôi tiến hành.
Hắn mỉm cười một mình. Hắn vừa nghĩ tới hai chữ “vu vơ” mà một tác giả dùng làm tựa đề cho loạt bài viết về văn chương trong một website văn học có uy tín. Lý do là vì hắn cũng đang vu vơ về việc viết văn. Bản thân hắn không quan trọng nên những gì thuộc về hắn cũng không quan trọng. Tất cả chỉ là...vu vơ.
Lần đó gia đình chúng tôi bay qua Texas để dự lễ ra trường High School của Kevin, thằng cháu, con trai út của ông anh Tư. Đại gia đình đi thành một phái đoàn, kéo đến hội trường của trường học, nhìn đám trẻ tưng bừng nhốn nháo, hớn hở vui cười, gọi tên nhau í ới, lòng tôi cũng vui theo. Chương trình bắt đầu, cả hội trường im phăng phắc, sau các thủ tục ban đầu, các bài phát biểu của các thầy cô giáo, hiệu trưởng, là phần phát biểu cảm tưởng của người thủ khoa, valedictorian. Đó là một cậu bé Mỹ da trắng, cao ráo, khuôn mặt sáng sủa, có nụ cười thật dễ mến...
Hồi mới qua Mỹ, tiếng Mỹ dở ẹt mà Bách cũng lấy được bằng lái xe hơi trong vòng ba tuần từ ngày đặt chân xứ này. Tuần đầu lo thủ tục giấy tờ thẻ an sinh, thẻ căn cước. Tuần thứ hai đậu viết, tuần thứ ba đậu lái. Nhanh thần tốc. Thế mà sau 30 năm ở Mỹ, hắn phải thi viết hai lần, thi lái bốn lần mới đậu bằng lái xe mô-tô 1.000 phân khối Harley-Davidson. “Anh mướn cái mô-tô nhỏ 300 cc thôi cho dễ thi. Có $20 một ngày à,” người giám thị DMV vừa khuyên vừa an ủi hắn. “Hoặc anh vào trường học có $400 đô một khoá ba tuần rồi thi ở đó luôn cho dễ.” “Thank you chị nhưng đậu bằng xe nhỏ rồi chạy xe lớn chỉ có chết sớm. Tôi sẽ thi lại cho đến khi đậu.”...
Ông bà có cả thảy 9 người con. Không may, anh Tư và anh Tám mất sớm. Chị Bảy lúc nhỏ, hay bị giật kinh phong. Càng ngày, biến chứng càng trầm trọng, trở thành thần kinh, phải cho vào bệnh viện tâm thần. Cũng may, những người con còn lại đều thành đạt, nên ông bà cũng được an ủi, và đỡ cảm thấy bứt rứt khi nghe miệng đời dèm pha: “Nhà đó chắc thất đức lắm, nên con cái mới bị vậy.”
Tôi chẳng rõ hình ảnh chiếc Xích Lô len vào tâm trí tự hồi nào; lại khiến lòng tôi xao xuyến trong lần đầu nhìn loại xe đạp ba bánh này trưng bày bên ngoài một cửa hàng chuyên bán nước mía, trong khu thương mại khá sầm uất tại Little Saigon quận Cam, sau bao năm sống xa đất nước. Sau này tôi thấy ở nhiều nơi khác nữa, như ở khu mua sắm Hong Kong, trên đường Bellaire, tên Việt là đại lộ Saigon bên Houston Texas. Nơi đây có tới hai chiếc Xích Lô đặt trang trọng trước một siêu thị thật lớn, người đi qua đi lại thường dừng bước nhìn ngắm, hay chụp vài tấm ảnh. Rồi còn bao nhiêu chiếc Xích Lô sáng loáng, nhỏ nhắn xinh xinh được trưng bày ngày một nhiều thêm nơi phòng khách trong các ngôi nhà bạn hữu tôi từng có dịp ghé thăm. Tôi cảm thấy Xích Lô giống một thứ gì thân thương của người Việt Nam như lũy tre làng, con trâu, luống cày, chiếc xuồng ba lá,…
Nhạc sĩ Cung Tiến