Hôm nay,  

Đi Đổi Gió

13/01/202300:00:00(Xem: 3526)

                                 

sach-vvnm
Bộ sách VVNM
 
Tác giả Lê Đức Luận lần đầu tham dự VVNM với bài “Ngẫm ra mới thấy thèm”. Tốt nghiệp Khóa 1 Trường ĐH/CTCT/ Đà Lạt.
Trước năm 1975 ông là sĩ quan, làm việc trong Ủy Ban Binh Thư - Tổng Cục/CTCT/QL VNCH – Sài Gòn. Sau năm 1975 Ông bị “Tập trung cải tạo” 7 năm. Sang Mỹ năm 1986. Tác giả có viết bài đăng trên các Đặc San: Ức Trai, Biệt Đông Quân, Chiến Sĩ Cộng Hòa.
Sau đây là bài tham dự VVNM mới nhất của ông.

*
 
Cách nay mấy tuần, tôi đến thăm một người bạn thân đang ở trong nhà dưỡng lão Elmwood House ở Quận Arlington. Cái khung cảnh ấy khiến tôi suy nghĩ về cuộc đời và thân phận tuổi già.

Ra khỏi thang máy tầng lầu 2, trước mặt là một phòng rộng, bày biện mấy bộ salon, năm ba chiếc bàn vuông, bàn tròn sắp xếp gọn gàng; bên phải, bên trái là hai dãy hành lang dẫn vào các phòng ngủ – hun hút, im lìm. Năm bảy cụ quây quần trong phòng giải trí này chuyện trò, đánh cờ tướng, xoa mạt chược, chơi tứ sắc hay bài Tây. Bỗng tôi trông thấy ông Phan đang ngồi đánh cờ tướng với ông cụ cùng trạc tuổi ở chiếc bàn gần cửa. Một chút ngỡ ngàng, tôi tự hỏi: “chẳng lẽ ông ta cũng vào nhà dưỡng lão?” Hỏi thế, bởi vì ông Phan có đến bốn đứa con học hành thành đạt, đứa nào cũng có nhà cửa khang trang, tưởng chừng về già ông ta sẽ có cuộc sống hạnh phúc sum vầy bên con cháu. Nhưng cuộc đời nào ai biết chắc tuơng lai?

Một thời, gia đình ông Phan được xem là mẫu mực và thành công ở Mỹ. Vợ chồng ông được mọi người nể nang, quí mến vì khi con cái thành đạt, họ vẫn giữ nếp sống cần kiệm, khiêm cung… Những lời khuyên nhủ của ông Phan được nhiều người chú ý lắng nghe.

Bởi vậy khi ông Phan vào viện dưỡng lão làm nhiều người ngạc nhiên với lời bàn ra tán vào, nghe rất mủi lòng… Mặc dù ở Mỹ, người già vào viện dưỡng lão, người đau yếu không còn tự chăm sóc cho bản thân thì vào nhà an dưỡng (nursing home) là chuyện bình thường. Nhưng trường hợp ông Phan lại không bình thường đối với những người Việt cao niên.

Vùng Miền Đông này, gồm VA, MD, DC, tuy không đông người Việt bằng CA, hay TX - chỉ xếp vào hàng thứ ba, nhưng vào những dịp lễ lạc, các bữa cơm gây quỹ, hay cưới xin đều đông đầy, chật kín nhà hàng – it nhất cũng  trên mươi bàn (mỗi bàn 10 người). Nếu người tổ chức khéo léo sắp xếp thực khách cùng một thế hệ, có hoàn cảnh na ná như nhau vào chung một bàn thì bao giờ cũng rom rả qua nhiều câu chuyện: vui, buồn, thương, ghét; chuyện trên trời, dưới đất; chuyện thời sự trong nước; chuyện thế giới bao đồng mà bấy lâu chất chứa trong lòng bây giờ có dịp tuôn ra – không dứt…

Hồi mới định cư ở vùng này, gặp được người đồng hương vui lắm - tay bắt mặt mừng. Vài ba gia đình hẹn hò nhau ở một căn apartment nào đó để hàn huyên tâm sự. Câu chuyện của các bà xoay quanh về nỗi hãi hùng trong chuyến vượt biên, sang chuyện mách bảo nhau kiếm việc làm, đi học nghề, hay xin trợ cấp xã hội… Các ông thì kể lại chuyện chiến đấu hào hùng bảo vệ quê hương thuở trước và nỗi gian lao, tủi nhục trong các trại tập trung cải tạo sau năm 1975… Chúng tôi quây quần thưởng thức tô phở, hay những chiếc bánh xèo nóng giòn, thơm phức, còn thuần túy mùi vị quê nhà do chủ nhà khoản đãi. Lúc đó chúng tôi vào độ tuổi bốn mươi. Bây giờ nhớ lại, thấy tình đồng hương ngày nào sao mà đầy ắp thân thương.

Mười năm sau, gặp lại, các bà xoay quanh câu chuyện: làm ăn, buôn bán, mai mối hôn nhân. Rồi sang chuyện: khoe con, khoe của. Bà này hỏi thăm bà kia: “Con chị ra trường bác sĩ hay kỹ sư? – Cái nhà của chị rộng bao nhiêu square feet, ở khu nào? Hột xoàn bao nhiêu carat, nước d hay nước f … Áo quần, xách tay hiệu gì? Có là hàng “hiệu” thời trang nổi tiếng hay không? Các bà mách bảo nhau nơi sửa sắc đẹp giá rẻ mà bảo đảm để “tân trang” cái mũi, cái cằm, “bơm” thêm cặp vú, đôi mông đã đến hồi “xuống cấp”. Còn các ông thì bàn về việc đấu tranh quang phục quê hương, hăng say đưa ra nhiều đường hướng đấu tranh: trong chiến thuật (ngắn hạn) phải làm thế này, trong chiến lược (dài hạn) phải suy nghĩ thế kia. Nghe qua, thấy ý kiến nào cũng hay, nhưng không có sự đồng thuận, thống nhất hành động. Cho nên người Việt hải ngoại theo chủ nghĩa Quốc gia Dân tộc, tuy có chính nghĩa, có lý tưởng nhưng chưa có sức mạnh để thực hiện ước mong…

Thấm thoát đã đến tuổi về hưu, bây giờ các bà xoay qua chuyện: rể, dâu, con cái, cháu nội, cháu ngoại. Bà nọ nhìn bà kia than: “con dâu dữ dằn, thằng rể khó tính.” Có bà than khổ: “bận rộn với đám cháu nội, cháu ngoại.” Bà kia rươm rướm nước mắt, mếu máo: “ bận rộn nhưng có đựợc cái hạnh phúc sum vầy, còn tôi thì rảnh rang trong bất hạnh cô đơn – nhìn mấy đứa cháu thương đứt ruột, muốn bồng bế, chăm sóc mà con dâu, thằng rể đâu có cho. Chúng nó bảo tôi chưa qua một lớp huấn luyện chăm sóc trẻ con, thì không được đụng tới con nó.” Còn chuyện các ông nghe ra vô cùng sầu thảm. Có ông mượn vài câu thơ của Vũ Hoàng Chương để bày tỏ nỗi niềm: “Lũ chúng ta, lạc loài, dăm bảy đứa/ Bị quê hương ruồng bỏ, giống nòi khinh.” hay: “Lũ chúng ta đầu thai nhầm thế kỷ/ Một đôi người u uất nỗi chơ vơ?” Ông khác thì ngâm thơ của Đặng Dung“Đầu bạc giang san thù chưa trả/ Long Tuyền mấy độ bóng trăng soi.”* (Thi sĩ Tản Đà dịch)                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                      
Sang tuổi bảy mươi, khi gặp nhau, xem ra cả cụ ông lẫn cụ bà đều ung dung tự tại – không còn bàn danh lợi, tiền tài mà chỉ xoay quanh vấn đề: dược thảo, châm cứu, tập thể dục, tu hành và nhà dưỡng lão hay nhà an dưỡng (nursing home). Đây là những đề tài quý cụ quan tâm. Do vậy, chuyện ông Phan vào nhà dưỡng lão được một người hàng xóm nhắc đến trong bàn tiệc hôm họp mặt tất niên của Hội Quảng Đà ở nhà hàng Thần Tài (VA). Chuyện kể rằng:

Vợ chồng ông Phan mua căn townhouse ở gần khu thương xá Eden. Khi họ đến đây đã có ba đứa con: thằng con trai đầu vừa tròn tám tuổi, đứa con gái thứ hai sáu tuổi, thằng con trai thứ ba hai tuổi, sau này họ có thêm một con gái út. Như bao nhiêu người tỵ nạn khác, họ chịu thương chịu khó làm việc chăm chỉ và rất cần kiệm. Lúc con còn nhỏ, ông Phan đi làm 2 job, mới đủ trang trải tiền nhà và nuôi vợ con. Khi đứa con út đủ tuổi vào mẫu giáo, bà vợ xin làm ‘ca hai’ ở một tiệm Seven/Eleven gần nhà để vừa đưa đón con đi học vừa chăm nom việc nhà. Bà Phan vào làm Seven/Eleven được vài tháng thì ông Phan xin nghỉ job ban đêm, ở nhà lo việc chỉ dạy con cái học hành.

Trước năm1975, hai ông bà đều là nhà giáo. Ông Phan dạy toán ở trường Phan Chu Trinh-Đà Nẵng, còn bà dạy môn Việt văn, nhờ vậy việc dạy dỗ con cái học hành có kết quả tốt - đứa nào cũng được xếp hạng nhất nhì trong lớp. Hôm đến dự lễ tốt nghiệp Trung học của thằng con trai đầu, ông bà vui mừng thấy con mình được đậu thủ khoa và đại diện cho học sinh toàn trường đọc diễn văn. Lên Đại học, nó xin được học bổng và sau đó thi đậu vào trường Y khoa. Thằng con trai lớn là đầu tàu dẫn dắt các em - lần lượt các con của ông bà đều vào Đại học: đứa con gái thứ hai đậu vào trường Dược, thằng con trai thứ ba học ngành điện toán, con gái út học Luật.

Với đồng lương ít ỏi kiếm được hằng tháng, ông bà rất lo lắng, sợ không đủ tài chánh cho con ăn học. Nhưng thu nhập thấp (low income) các con lại được chính phủ cho vay tiền ăn học, khi nào ra trường có việc làm, sẽ trả dần. Nhờ vậy, các con ông lần lượt tốt nghiệp: Bác sĩ, Dược sĩ, Kỹ sư, Luật sư. Gặp ai ông Phan cũng ca tụng về hệ thống giáo dục tân tiến ở Hoa Kỳ và luôn luôn bày tỏ lòng biết ơn chính phủ cùng người dân Mỹ đã cưu mang, giúp đỡ. Nhờ vậy gia đình ông mới có được cuộc sống như ngày hôm nay. Ông thường nói: - Hoa Kỳ là miền ‘đất hứa’ cho những ai có ý chí và tài năng, và có nhiều cơ hội để đạt được những ước mơ …

Khi các con ra trường, xin được việc làm, ông bà Phan lo việc dựng vợ, gả chồng cho các con. Và rồi chúng nó lần lượt ra riêng, mỗi đứa ở một nơi và đều có nhà cao cửa rộng. Lúc này ông bà đã đến tuổi về hưu. Các con - đứa này mời, đứa kia gọi ba mẹ về ở chung, nhưng ông bà không đi theo đứa nào, vẫn ở lại trong căn townhouse đầy ắp kỷ niệm này và vẫn giữ nếp sống cần kiệm, khiêm tốn như ngày trước. Thỉnh thoảng ông bà rời nhà vài tuần - đi thăm con cháu phương xa - gọi là “đi đổi gió”. Khi về bao giờ cũng có vài món “đặc sản” làm quà cho bà con hàng xóm. Trong khu townhouse này ai cũng thương yêu và quí mến ông bà.

Ông bà Phan thong thả và sống thoải mái được mấy năm, thì Bà Phan lâm bệnh ung thư. Ông Phan chết điếng trong lòng. Ngoài việc chữa trị ở nhà thương, khi nghe nơi nào linh thiêng, ông đều đưa bà đến đó: khấn nguyện, cầu xin …nhưng căn bệnh ung thư mỗi ngày một trầm trọng, bác sĩ cho biết vô phương cứu chữa. Ông Phan xót xa mỗi khi bà bị cơn đau hành hạ, không ăn uống được sau mỗi lần hóa trị (chemotherapy). Ông túc trực bên bà ngày đêm, đút cho bà từng muỗng cháo - an ủi, vỗ về … và nuôi hy vọng với phương pháp chữa trị này sẽ giết được tế bào ung thư, và biết đâu sẽ có ‘phép lạ’ cho bà khỏi bịnh, rồi vợ chồng ông sẽ tiếp tục những ngày hạnh phúc bên nhau - đi đổi gió!

Ông tỉ tê niềm hy vọng đó với vợ mỗi khi bà không bị cơn đau hành hạ. Nhưng bà Phan đoán biết mình sẽ không thể nào qua khỏi, nắm tay chồng, thổn thức qua giọng nói đầy nước mắt: Chuyện tử sinh là do ý Chúa - chúng mình thành vợ, thành chồng cũng do duyên tiền định. Chúng mình gắn bó với nhau, cùng nhau trải qua bao cay đắng ngọt bùi trong mấy mươi năm nay… Em cảm ơn Chúa đã cho em được gặp anh. Em cảm ơn anh đã đem lại cho em những ngày vui và hạnh phúc. Nếu như không có anh bên cạnh thì đời em và các con chưa chắc được như ngày hôm nay. Bây giờ đã qua những ngày gian khổ, chúng mình có thể thảnh thơi bên nhau, an hưởng tuổi già, thì em sẽ phải xa anh…Anh ơi! Đó là do thánh ý Chúa! Bà Phan úp mặt trên vai chồng khóc nức nở, nói tiếp: Em không dám than trách Chúa, nhưng em ân hận đã phải ‘ra đi’ trước anh – rồi đây trong những ngày còn lại của tuổi già, anh sẽ ra sao - hở anh?

Ông Phan ứa nước mắt, âu yếm nhìn vợ nói: Em nên tin vào lời Chúa: “Sự gì loài người đã kết hợp, Thiên Chúa không được phân ly.” Em còn nhớ khi làm lễ hôn phối cho chúng mình, ông cha xứ đã đọc câu ấy không? Chúng mình đã gắn bó với nhau thì Chúa sẽ không nỡ để phân ly. Em nên lạc quan – phép lạ sẽ đến. Nghe ông Phan lặp lại câu ghi trong Kinh Thánh, bà bật cười nói: Anh nói ngược lại rồi: “Sự gì Thiên Chúa kết hợp thì loài người không được phân ly.” Ông Phan tiu nghỉu nói: - Anh đâu phải con chiên ngoan đạo như em.

Sau câu chuyện này, bà Phan cảm thấy vui và tỉnh táo tâm sự cùng chồng như những lời trăn trối: Khi em đi rồi, chưa biết các con sẽ sắp xếp thế nào để phụng dưỡng cha già? Hồi xưa ông bà mình có câu: “nhỏ cậy cha, già cậy con”, bây giờ cuộc sống ở đây khác rồi - tuổi già không thể trông cậy hoàn toàn vào con cái. Các con mình không tệ bạc lắm đâu, nhưng còn phải chăm lo hạnh phúc gia đình của chúng nó. Cha mẹ già thường chi phối cuộc sống hạnh phúc của các con. Mình nên suy nghĩ đến điều đó. Em nhận thấy: - Anh không thể ở chung với gia đình thằng Hiếu – con vợ nó chi li và đanh đá quá; cũng không thể ở với con Thảo – thằng chồng nó rất khó tính; còn thằng Thuận thì được con vợ biết điều, nhưng nó lại khắc khẩu, không hợp tuổi với anh; chỉ còn con Hòa, nó thương anh nhất, lại được thằng chồng, tuy là người Mỹ, nhưng rộng rãi và tốt bụng… Nhưng không nên về ở chung với nó, nhà nó gần đây, có thể qua lại, chăm sóc cho anh. Vậy anh cứ ở đây - phần số của em đã đến lúc phải ra đi, nhưng em sẽ về phù hộ cho anh và các con. Tiền già, và tiền tiết kiệm còn trong ngân hàng đủ cho anh sống thoải mái, không phải nhờ cậy con cái vấn đề tài chánh. Nhưng chớ có bắt chước mấy ông ‘già dịch’: bồ nhí - bồ nheo mà khổ cái thân già. Bà nheo mắt nhìn ông, cười mếu máo. Ông Phan siết tay vợ thì thầm: Em mới hứa sẽ về với anh thì bố bảo đứa nào dám chui vào căn nhà này dù có cho vàng. Cả hai cùng cười, khoảnh khắc vơi bớt nỗi đau buồn.

Bà Phan ôm lấy vai chồng, căn dặn: - Anh cũng đừng nghĩ đến chuyện vào viện dưỡng lão - tội nghiệp lắm! Em đọc câu chuyện về cặp vợ chồng già ở Canada mà thấy thương: Khi về già, ông bà này bán hết gia sản chia cho các con rồi vào nhà dưỡng lão. Mấy năm ở trong nhà dưỡng lão, không có đứa con nào đến thăm. Một hôm thằng con trai út nhắn tin: “con sẽ đến thăm ba mẹ trong ngày Noel.” Ông bà già mửng lắm, đến ngày Noel, từ sáng sớm đã ăn mặc đẹp đẽ xuống phòng khách của nhà dưỡng lão chờ đợi. Gặp ai ông bà cũng vui vẻ khoe: “hôm nay thằng con trai út của chúng tôi đến thăm.” Nhưng đến năm giờ chiều có một người đến trao cho ông bà bó hoa và tấm thiệp viết mấy dòng ngắn gọn: “Xin lỗi ba mẹ, hôm nay con không đến được vì bạn gái của con đến rủ đi chơi từ sáng sớm. Chúc Ba Mẹ vui trong ngày Giáng Sinh.” Ông bà tiu nghỉu ôm bó hoa trở về phòng, bà vợ vừa đi vừa khóc thút thít … ông chồng an ủi: “Mình nên mừng cho con sắp lấy được vợ.” Ông Phan thẩn thờ nói: - Cũng may họ còn có hai người an ủi cho nhau, nếu chỉ một người ôm bó hoa thui thủi về phòng thì buồn biết dường nào!

 Cơn đau chợt đến, bà Phan nắm tay chồng, thì thào:  Em mệt lắm, chắc sẽ không còn được ở trên thế gian này bao lâu nữa, em muốn gặp các con trước khi ra đi. Nước mắt bà Phan chảy dài trên đôi má nhăn nheo.

Mấy hôm sau, xe cấp cứu đưa bà Phan vào bệnh viện, lúc này con cháu đã về đông đủ, vào nhà thương quây quần bên giường bệnh của mẹ. Rất mệt, nhưng bà Phan cũng ráng nở nụ cười, nhìn con cháu và lấy hết tàn hơi nói lời trăn trối: - Con người không ai tránh khỏi cái chết. Phần số của mẹ đã được Chúa gọi về. Các con thương mẹ thì cố gắng chăm sóc cho ba lúc già yếu - đừng để ba các con cô đơn - tội nghiệp! Ba các con đã trải qua nhiều năm cơ cực lo cho mẹ con mình có cuộc sống đầy đủ và tạo điều kiện cho các con ăn học thành tài. Các con cũng đừng quên ơn nước Mỹ đã cưu mang gia đình chúng ta và nhớ giúp đỡ những kẻ gặp khó khăn – kém may mắn hơn mình. Các con cũng bỏ qua cho mẹ, nếu mẹ có điều gì làm các con phiền lòng …Giọng bà Phan yếu dần rồi bà đi vào hôn mê. Các con nức nở, nghẹn ngào…vài tiếng kêu khe khẽ: Mẹ! Mẹ ơi! Mấy đứa cháu nội, cháu ngoại thấy người lớn khóc, chúng cũng khóc, nắm tay bà: Bà ơi! Hè này Bà đến nhà cháu trước tiên nghe Bà. Nhưng bà im lặng và sau đó qua đời.

Đám tang bà Phan rất đông người đến phúng viếng, tỏ lòng tiếc thương, xúc động đưa bà đến nơi an nghỉ cuối cùng.

Những ngày sau đó, ông Phan một mình thơ thẩn vào ra trong căn townhouse quạnh quẽ. Khi mặt trời xế bóng, người ta thấy ông thả bộ trên con đường dẫn đến nghĩa trang. Ông đến đây, ngồi bên mộ vợ - có lúc mang theo quyển sách, có lúc một bó hoa, có khi là túi đồ ăn. Những hôm nắng chiều tắt muộn, ông ngồi đó cho đến lúc hoàng hôn buông xuống… ông mới quay về nhà. Có những buổi chiều thu, sương mù che khuất những ngôi mộ xa xa, bầu trời ảm đạm, khu nghĩa trang chìm trong hơi sương lạnh lẽo, hoang vắng, đìu hiu … ông vẫn ngồi bên mộ vợ cho đến lúc tiếng côn trùng đây đó trổi lên, ông mới ra về. Hình như không gian và thời gian ở nghĩa trang - nơi vợ ông đang an nghỉ - giúp ông vơi  bớt nỗi cô đơn.

Thỉnh thoảng các con gọi điện thoại an ủi, có lúc về thăm, nhưng không thấy đứa nào vồn vập mời ông “đi đổi gió” như lúc bà Phan còn sống. Ông hiểu lý do tại sao – Lúc trước, sự hiện diện của bà đem đến cho các con cháu niềm vui, vì bà nấu ăn khéo, chúng nó được thưởng thức món ngon vật lạ, hơn nữa bà có thể trông cháu cho dâu con được rảnh rang đi shopping mua sắm, còn bây giờ sự hiện diện của ông chỉ tăng thêm phần ‘bận rộn’ cho chúng nó. Ông biết ‘phận’ mình, nên không trách móc con cháu, chỉ ‘tủi’ cái thân già ‘vô tích sự’. Ông sống trong âm thầm, lặng lẽ, buồn hiu…

Rồi ngày mãn tang của bà lại đến, các con về đông đủ. Sau khi xong lễ cúng mãn tang, các con ông bàn bạc đến việc phụng dưỡng cha già. Thằng con trai đầu nêu lên ý kiến: “Ba nên bán căn nhà này rồi về ở với chúng con.” Chuyện bán nhà thì các con đều tán thành. Nhưng sang vế thứ hai: “ba về ở với chúng con” thì chẳng thấy đứa nào xung phong hay phát biểu ý kiến cho cụ thể – con trai nhìn vợ, con gái nhìn chồng – im lặng! Để giải tỏa bế tắc, ông đưa ra đề nghị: - Hay là bán căn nhà này, rồi ba đến ở mỗi nhà 3 tháng. Giải pháp này các con ông đều đồng ý.

Thế là, mùa Đông năm ấy, ông về Florida ở với gia đình đứa con trai đầu, tránh được cái tuyết giá ở Miền Đông. Sang mùa Xuân ông xuống California, ở với đứa con gái thứ ba – Ôi thôi, vui hết biết…Chợ Tết, chợ hoa, hội hè đình đám tưng bừng, quán xá đông vui, đồ ăn thức uống vừa rẻ vừa ngon. Qua mùa Hè ông bay sang Seattle (Tiểu bang Washington ), nơi được xem có phong cảnh đẹp nhất nước Mỹ với khí hậu mát mẻ và thú vị nhất là đến thác Willamette ở Oregon vớt cá hồi vào những ngày đầu mùa Thu.  Giữa Thu ông về lại Virginia ở với con gái út – nhìn lá đổi màu vàng óng ả trong hơi sương chớm lạnh.

Theo lịch trình này, ông vơi bớt nỗi buồn và an hưởng tuổi gìà được hai năm, nhưng sang năm thứ ba thì có vấn đề - con dâu cả ở Florida than phiền: “hai năm rồi không được về vui chơi, sum họp với gia đình ở Việt Nam vào dịp Giáng Sinh.” Thế là các con ông gọi điện thoại, bàn bạc với nhau, thay đổi lịch trình: mùa Hè ông xuống Florida, mùa Thu qua California. Cái nắng hè ở FL làm ông ngột ngạt và trời thu ở CA cỏ cây trơ trụi, ông thấy buồn hiu hắt…

Thế là ông Phan xin vào nhà dưỡng lão Elmwood House, ở Quận Arlington VA. Ông tự an ủi: “đi đâu rồi cũng không bằng ở vùng phụ cận Washington DC –  khí hậu thay đổi 4 mùa…”

Thỉnh thoảng, những ngày đẹp trời, ông đến nhìn lại căn townhouse đã bán, ngậm ngùi tâm sự với mấy người hàng xóm: Phải chi bà nhà tôi chưa mất, chúng tôi cứ ở đây, thỉnh thoảng đi thăm con cháu, thì tuổi già hạnh phúc, vui vẻ biết bao. Khi nhà tôi còn khỏe mạnh, đứa này mời, đứa kia gọi – khi đến con cháu nó mừng, khi về chúng nó buồn lưu luyến…Bây giờ mình tôi - đến chúng nó lo, về chúng nó mừng... Cho nên vào nhà dưỡng lão là con đường “độc đạo” đưa tuổi già đến chốn bình an.

 Khi chia tay, ông thường nở nụ cười héo hắt, nói: “Không có gì sướng hơn Tự Lập - Tự Lo” quý vị ạ… Một câu nói làm cho các bậc cao niên suy ngẫm.

LÊ ĐỨC LUẬN

(Tháng 12 Năm 2018)
*Quốc thù vị báo đầu tiên bạch / Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma.
 

Ý kiến bạn đọc
13/02/202305:33:30
Khách
Ở nhà dưỡng lão còn hơn tới nhà đứa này vài tháng đứa kia vài tháng như vậy, mới thì vui sau thì chúng mặt nặng mày nhẹ rồi coi thường .... nhà dưỡng lão dù sao cũng là nơi riêng tư của mình, muốn ăn muốn ngủ lúc nào cũng được, ở chung với chúng phải nhìn mặt chúng mà sống , mệt lắm.... ông bà ta nói chớ có sai: ở xa mỏi chân ở gần mỏi miệng , tha moỉ chân còn hơn mỏi miệng nếu ở nhà dưỡng lão cũng đừng mong chúng phải tới thăm, chúng tới thì tốt mà không tới thì đừng tủi thân..... phải luờng trước những gì chúng sẽ đối xử với mình , gặp chúng thì cứ nói với chúng: làm người phải biết ơn cha mẹ , tụi bây cũng có con , tụi bây đối xử cha mẹ tụi bây như thế nào thì sau này con cái tụi bây đối xử với tụi bây y như vậy, luật nào thì luật không bằng luật nhân quả, tin hay không thì nó vẫn hiện hữu.....chúng nghe hay không nghe thì chẳng quan trọng , hãy lo sức khỏe, an hưởng tuổi già được , chung sinh hoạt vui choi với những người trong khu dưỡng lão hoặc tìm nguồn vui ở tôn giáo, đi chùa hoặc nhà thờ... cố gắng cho tâm được an lành
29/01/202317:41:27
Khách
Độc Lập trừ (-) Tự Do trừ (-) Hạnh Phúc. Câu này chỗ nào cũng thấy ở VN.
16/01/202322:45:16
Khách
Thuờng thì cha mẹ đông con nuôi duỡng cực khổ nhưng xác suất có 1 đưá con chịu nuôi cha mẹ lúc tuổi già cao hơn. Có một số cha mẹ may mắn có con chịu sống độc thân nuôi cha mẹ cho đến khi chết. Tuy nhiên văn hoá và cuộc sống ở Mỹ rất khó cho dâu rể chấp nhận nhạc gia sống với mình vì họ còn phải lo cho con cái. Con cái càng thành công ở Mỹ thì càng khó chấp nhận cha mẹ già ở chung với mình. Gởi tiền về VN nuôi cha mẹ già thì dễ hơn là đem cha mẹ từ VN qua nuôi trong nhà. Vì vậy ai có cha mẹ còn ở VN thì không nên ép buộc cha mẹ phải qua Mỹ sống, vì nhỡ mình không đủ khả năng nuôi cha mẹ tuổi già thì sao? Một cách khác là khi nuôi con thì có 1 nguời ở với cha mẹ khi lớn lên lấy vợ gả chồng cũng ở với cha mẹ cho đến khi cha mẹ chết thì lấy cái nhà. Truờng hợp này là khi có 1 nguời con không có khả năng tự túc mua nhà nên phải ở với cha mẹ, đó là Tái Ông Thất Mã, tuy con không là luật sư, bác sĩ, hay kỹ sư nhưng là con ở với mình.
Sắc sắc không không. Ngày nào cha mẹ bận bịu nuôi con ăn học. Sau khi các con tốt nghiệp ra truờng tản mát khắp nơi rồi hai vợ chồng già ở nhà quạnh hiu. Thầy Tử Lộ xưa đội gạo đi bán nuôi mẹ khi làm quan rồi vẫn còn mơ uớc là mẹ còn sống để từ quan về đội gạo nuôi mẹ nhưng thời nay thầy Tử Lộ rất là hiếm.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 553,705
Tác giả sinh năm 1929 tại Quảng Trị, Cựu Trung Tá QLVNCH, cựu tù cải tạo. Định cư tại Sacramento, Cali. Năm 1991; Hội trưởng sáng lập Hội Thơ Tài Tử Việt Nam Hải Ngoại từ 1994; Sách đã xuất bản: Truyện ký "Người Trai Thời Chiến"; tập thơ "Chuyện Ngày Xưa"; Từng nhận “Certificate of Recogni-tion do The Sacramento International Poetry Hall of Fame tại Đại Hội Thi Ca Quốc Tế Sacramento 2006; Tác giả hiện là cư dân thành phố Garland, Texas và là Hội Trưởng Hội Người Việt Cao Niên Dallas nhiệm kỳ 2016-2017.
Sau vài lần vượt biên thất bại, ông anh thứ năm của tôi đến được Songkhla, Thailand. Trong lá thư gửi về, anh kể chuyến tàu của anh trải qua bao biến cố hãi hùng, cướp bóc, hải tặc, và cuối lá thư, anh nhấn mạnh, một câu mà viết cả chục lần: “Đàn bà con gái đừng bao giờ vượt biên”. Ý của anh là nhắn nhủ tôi đấy, vì chuyến đó tôi đòi đi theo nhưng ba tôi không cho vì lo cho tôi hiểm nguy nơi biển cả.
Tác giả là một dược sĩ, cư dân Chino Hills, California, đã nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ 2007. Bà là nhà văn có 8 tác phẩm đã xuất bản. Ngoài văn chương, sở thích của bà là đàn dương cầm, đã có 2 CD độc tấu nhạc cổ điển và tân nhạc. Sau đây là một truyện ngắn mới được dành cho Viết Về Nước Mỹ.
Một ngày trước mùa lễ Giáng Sinh, mẹ tôi gọi điện thoại cho tôi. Trong đường dây điện thoại tôi nghe bà khóc. Vừa khóc bà vừa kể chuyện thằng Út bỏ học. Bà nói cả nhà chúng tôi ai cũng khuyên bảo to nhỏ với nó, nhưng nó không nghe. Nhà chỉ còn mình tôi là chưa khuyên răn nó. Mẹ tôi nói: "Con gần tuổi với nó nhất, biết đâu con khuyên răn được nó đi học trở lại." Tôi lặng người nghe mẹ kể mà không biết an ủi mẹ như thế nào. Tôi nói với mẹ cuối tuần này, anh Đức, một người bạn của tôi về thăm nhà tôi sẽ quá giang nhờ xe để thăm nhà và nói chuyện với Út để coi sao. Tôi nói bà hãy yên tâm. Tôi hy vọng rằng sẽ khuyên bảo được Út trở lại trường để học.
Mấy hôm nay trời vẫn có nắng tuy khí hậu rất lạnh. Tôi hồi hộp nhìn những bông mai vàng của Mỹ đang nở sớm, hoa hồng vẫn còn ra nhiều búp, hoa giấy mọc xum xoe tươi đỏ, hoa chuối may mắn còn một nụ đang nở. Tay run run nâng niu những đóa hoa thầm cám ơn chúng vẫn chưa tàn trong thời tiết giá đông.
Năm nào cũng thế, trước Tết tôi thường dạo vài vòng trên các con đường quanh phố Bolsa, khu thương mại của người Việt, để được hưởng sớm không khí Tết và để lòng thấy thêm yêu đời. Hình ảnh, cảnh vật Tết ngày xưa được tái hiện lại làm cho cảnh phố phường trở nên thật đặc biệt. Nhìn xem cảnh vật và mọi người chuẩn bị đón Tết, lòng tôi bỗng lâng lâng một cảm xúc rộn ràng xen lẫn với cảm giác vui sướng như khi còn ấu thơ được hưởng ba ngày Tết tại quê nhà.
Cái gì? Trại hè Niềm Tin 10 hả? Trời đất quỷ thần ơi, mới ngày nào còn là trại Niềm Tin 1 mà bây giờ đã trại Niềm Tin 10 rồi sao? Thời gian đi nhanh khủng khiếp. Tôi vẫn còn nhớ….
Tác giả là Registered Nurse cho Saint Joseph's Hospital, Phoenix, Arizona từ năm 1975. Hiện tại bà đã về hưu, vui thú điền viên. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà dự Viết Về Nước Mỹ năm 2015, là lời cầu nguyện của một bệnh nhân “Thượng Đế! Đừng Bắt Con Phải Chết”. Bài viết mới của tg về câu chuyện muôn thuở: "Tình".
Ông Ronnie năm mươi bảy tuổi, Mỹ đen nhưng nhỏ con cũng xêm xêm Steven, đã thế mắt lại hơi xếch, tóc nối và thắt thành cái bím dài giống hệt mấy anh thổ dân da đỏ, lại giống đuôi sam mấy anh ba Tàu. Ông Ronnie có trách nhiệm giao và nhận hàng đến đi, hổng biết sao ổng lại nhanh nhạy như những tay thám thính, hễ trong hãng có động tịnh gì là ổng biết sớm nhất, ai còn ai bị ra đi, ai lên hương, ai xuống chó, phúc lợi thế nào… Ổng biêt hết ráo và luôn mách cho Steven, dĩ nhiên là lúc nào cũng kèm theo câu căn vặn:” Im miệng đấy nhé! Tao chỉ cho mày biết thôi đấy!”
Lúc nhỏ tôi rất kỵ cái kiểu người ta hay nói “ngồi lê đôi mách”. Thường bạn bè đi đâu chơi chung, những khi đùa giỡn hay chuyện trò, tôi luôn bị rơi vào khoảng không, khó tiếp nhận niềm vui đang có mà tâm tư đi tìm điều gì xa vắng, rồi lại sống với hình ảnh khác bằng tưởng tượng, thêu dệt mây trời với hoa thơm cỏ lạ, dù bạn bè trước mắt rất dễ thương tốt bụng thường lo lắng khi thấy tôi không cười nói và buồn bã.
Nhạc sĩ Cung Tiến