Hôm nay,  

Family Reunion Tại Mỹ

18/08/202212:24:00(Xem: 2622)

Kim Loan_IMG_1400_02072022

Tác giả tên thật là Nguyễn Thị Kim Loan, sinh năm 1966, là cô giáo tiểu học khi còn ở Việt Nam. Vượt biên và sống ở trại tỵ nạn Thailand từ 1989-1993. Định cư tại Canada từ 1994 đến nay. Tác giả nhận giải đặc biệt VVNM 2021.

*

 

Cách đây vài năm, hồi trước mùa dịch Covid, đại gia đình tôi có một Family Reunion nhân dịp đám cưới đứa cháu tại Arlington, Texas, Mỹ quốc. Dĩ nhiên, mục đích đầu tiên là tiệc cưới nhưng  sau đó là buổi họp mặt các thành viên già trẻ lớn bé của các gia đình trong họ hàng, mà với tôi, đó là dấu ấn kỷ niệm đặc biệt, vô cùng quý giá của tình thân, tôi sẽ không bao giờ quên.

Bên nội tôi, ngoài một ông chú đã mất khi còn trẻ và hai bà cô còn kẹt lại ngoài Bắc sau 1954 cũng đã lần lượt qua đời, chỉ còn lại ba gia đình: ba tôi, ông bác và ông chú.

Những ngày của tháng 4 năm 1975, gia đình bác tôi lên tàu qua Mỹ được một nửa, ông chú làm cảnh sát giang thuyền đang trên đường làm nhiệm vụ đã cùng chiến hữu theo tàu ra khơi nên còn để lại vợ con. Toàn bộ gia đình tôi đều bị kẹt lại dù cũng có cơ hội. Ba tôi làm việc trong phủ thủ tướng, máy bay mấy lần lên xuống trong dinh thủ tướng đón quan chức lớn nhỏ di tản nhưng ba không đi vì má tôi đang bệnh nặng nằm nhà.

May mắn thay sau đó theo phong trào vượt biên rầm rộ, nhà bác đi 3 chuyến, nhà tôi cũng 3 chuyến đều trót lọt. Rồi thời gian trôi qua, đại gia đình chúng tôi theo chương trình ODP, H.O,  đã lần lượt qua Mỹ định cư (riêng tôi ở Canada). Suốt bao nhiêu năm qua, gia đình họ hàng cũng đã có những buổi gặp mặt trong những dịp lễ Tết, cưới hỏi, nhưng ít nhiều cũng có người vắng mặt, hiếm khi nào đông đủ, vì công việc, vì chuyện gia đình, nên lần đám cưới này, có đầy đủ mọi người, tôi vô cùng háo hức .

Ngày đám cưới, ui chao, tay bắt mặt mừng hết người này đến người kia, có người vài năm mới gặp lại, có người nhiều năm, thậm chí có người tôi chỉ mới được gặp lần đầu tiên kể từ ngày mất nước 1975. Bên phía nhà cô dâu không biết thế nào, chứ bên nhà trai chúng tôi, tính ra có đến 15 chuyến bay và ba chuyến roadtrip đường bộ từ khắp nơi về dự lễ cưới. Này nhé, gia đình tôi từ bên Canada bay qua hai chuyến (vì còn gái tôi bận đi làm nên phải bay riêng), bên California tính cả Ba và ông anh ruột, mấy đứa cháu và gia đình ông bác tổng cộng là sáu chuyến bay, mấy đứa cháu bên Seattle hai chuyến, bên Utah một chuyến, bên Georgia đứa em họ một chuyến, bên Louisiana một chuyến, từ Singapore một chuyến và xa nhất là đứa cháu đang làm việc ở Switzelannd một chuyến, và một chuyến xe xuyên bang từ Oklahoma, cùng hai chuyến xe từ Dallas và Houston, Texas.

Xong ngày đám cưới, hôm sau là buổi Family Reunion tại nhà ông anh. Căn nhà rộng, chứa đủ ba thế hệ của đại gia đình, các nhóm chia nhau tụ họp nơi phòng khách, phòng ăn, hai phòng phụ, kéo ra đến cả garage. Những câu chuyện rôm rả, ôn lại những kỷ niệm xưa nơi quê nhà, kể nhau nghe những vui buồn cuộc sống, những biến cố, những thăng trầm trên đoạn đường tha phương, hòa cùng tiếng cụng ly, ăn uống thiệt là vui.

Ngay dãy bàn dài nơi phòng khách, một nhóm đang uống bia lạnh và nhâm nhi khô bò, tôi nhào vô và cũng ...làm một chai bia cho xôm tụ. Có mấy ông anh và thằng em họ. Nhóm này có một điểm chung là học cùng ngành kỹ sư và cùng làm cho các hãng máy bay trên đất Mỹ. 

Hai ông anh tôi, đi vượt biên, qua Mỹ năm 1979 và 1981, thằng em họ được ba nó bảo lãnh qua năm 1985. Ba anh em, tuổi tác có chênh lệch, kẻ trước người sau, học Engineer tại Đại Học Wichita Kansas. Sau khi ra trường may mắn thay đều có việc làm ngay. Ông anh lớn, nhờ thông minh, siêng năng cần cù, tốt nghiệp Electrical Engineer với điểm xuất sắc (Cum Laude), được chọn ghi tên vào cuốn sách Who’s Who Among Students in American Universities. Vừa ra trường, anh đầu quân cho hãng Boeing, sau làm cho Kelly Air Force Base ở San Antonio, Texas. Khi Base này đóng cửa anh chuyển qua Tinker Air Force Base ở Oklahoma, rồi lại qua Defense Contract Management Agency (DCMA) under U.S. Department of Defense tai Dallas, Texas cho đến ngày nay.

Ông anh kia thì chung thủy với Boeing, dù bao phen kinh tế lên xuống, hãng cho nhiều người nghỉ việc, anh vẫn được giữ lại bám trụ. Thằng em họ cũng may mắn không kém, xin được việc làm theo kiểu hợp đồng cho một công ty ngoài tiểu bang Texas với mức lương ngất ngưởng đến khó tin. Đến nay, sau hơn hai mươi năm thỏa thuê, con cái đã lớn học xong Đại Học, hắn thấy nhu cầu “kiếm nhiều tiền” không còn quan trọng nữa, bèn trở về làm cho hãng máy bay Delta gần nhà.

Ngồi nghe ba chàng kỹ sư này nói chuyện mà tôi say mê, từ những câu chuyện chuyên môn trong nghề, đến những giải thích cặn kẽ về các loại máy bay Boeing, dạng thương mại chở khách, dạng cho chiến tranh, cũng như giải đáp những thắc mắc của tôi về những kỹ thuật sữa chữa Boeing khi gặp sự cố ngoài đường băng, lúc cất cánh, hạ cánh, tôi cũng mở mang được chút kiến thức.
 

Tôi ham vui tiếp tục cầm chai bia chạy qua bên phòng ăn, nơi có mấy bà chị họ, các chị qua từ năm 1975 học hành xong đều lần lượt xin được việc trong sở xã hội làm social worker. Ban đầu là một chị sau đến hai cô em và sau nữa là cô em dâu cũng từ trong sở xã hội mà ra. Đúng là các con của bác tôi có duyên với sở xã hội vùng nam California này vì họ thông thạo cả Tiếng Anh và Tiếng Việt, do lúc ấy cộng đồng người Việt chưa đông đảo, ít người Việt làm nghề này. Các chị đã làm việc và giúp đỡ được nhiều đồng hương Việt Nam được hưởng những quyền lợi theo hoàn cảnh của họ như xin nhà housing, xin tiền trợ cấp...

 

Thấm thoát cho đến nay, khi cộng đồng người Việt tại Nam California phát triển không ngừng, người kéo đến “đất lành chim đậu” ngày càng tăng, các chị đã là những nhân viên thâm niên kỳ cựu tại đây, rành rẽ các luật welfare, an sinh xã hội, góp phần giúp cộng đồng Mỹ và cộng đồng Việt bằng những kinh nghiệm và bằng niềm yêu thích công việc. Nghe các chị kể nhiều câu chuyện, nhiều mảnh đời đó đây mà công việc đã cho cơ hội gặp gỡ, với tất cả niềm vui và hãnh diện, tôi cảm thấy đó cũng là sự thành công trong nghề nghiệp của các chị.

Đang vui chuyện với mấy bà chị họ tôi vẫn không quên... liếc qua bàn nơi phòng khách, lúc này đã có thêm hai đứa em họ khác cũng vừa nhập cuộc. Thế là tôi lăng xăng trở lại chỗ bàn dài để hóng chuyện tiếp.

Hai đứa em họ này, tôi có thể gọi là những trường hợp “đổi đời thành công”. Bởi vì đối với nhóm “kỹ sư Boeing” tôi vừa kể, thì sự thành công của họ là chuyện đương nhiên, vì khi còn ở Việt Nam họ đã vào Đại Học, siêng năng và có ý chí trong việc học hành. Còn hai cậu em này đến Mỹ, học xong trung học là tính đường đi làm kiếm tiền ngay cho nhanh. Trời không phụ lòng người nếu có ý cầu tiến chịu thương chịu khó. Nay một người đã làm chủ mấy tiệm nails rất đông khách. Mỗi sáng hai vợ chồng thức dậy sớm chạy chiếc xe van to ra khu chợ Việt Nam nơi điểm hẹn để đón cả chục nhân viên thợ nails, rồi chở họ đến các tiệm của vợ chồng hắn ở vùng ngoại ô. Hai vợ chồng nó đã tậu mấy căn nhà ở Texas, cuộc sống đủ đầy từ xe hơi đến quần áo thứ nào cũng là hàng hiệu rất sành điệu, mấy ông anh kỹ sư Boeing kia cũng...chưa dám ...rộng tay mua sắm như thế.

Vừa nâng ly bia, hắn nói với tôi:

    - Té ra nghề của em là “ông chủ nails”, may quá em đã tìm ra... chân lý!

Đứa thứ hai, đặc biệt hơn, vì đây là lần đầu tiên tôi gặp lại hắn sau hơn 30 năm, nếu không được báo trước, tôi không thể nhận ra đó là cậu em thân thương, dáng gầy gầy, còm ròm ngày nào. Qua đến Mỹ, hắn cũng xong Trung Học, nhưng cương quyết không vào Đại Học. Hắn cười cười kể tôi nghe:

-          Chân của em là chân đi, chị biết rồi đó!

-          Ừa, vụ này chị biết, em khỏi phải ...khoe.

-          Bởi vậy, Texas đối với em quá ...nhỏ bé, em muốn khám phá những vùng đất mới, thử những công việc khác nhau, đi đó đi đây, em đã tìm được nghề đúng như mơ ước, thỏa chí tang bồng ngao du khắp nơi, là nghề lái xe tải chạy đường dài.

-          Wow!! Nghề này coi bộ thú vị. Nhưng chị khó hình dung ra một thanh niên dáng thư sinh như em là tài xế xe truck mười mấy bánh to bự tổ chảng đó nghe.

-          Phải nói là tuyệt vời chị ơi! Em lái xe xuyên bang, đi khắp nơi trên đất Mỹ, làm bạn với Free Ways, với núi đồi, với những thị trấn, những thành phố, ngắm mây trời bao la, hít thở căng lồng ngực không khí trong lành những buổi sớm mai, hoặc đêm khuya ngắm trăng sao lấp lánh, vằng vặc ...

-          Trời! Em đúng là chàng... thi sĩ chớ không phải anh tài xế xe tải.

Hắn lại cười... mắc cỡ:

-          Nhưng rồi tuổi cũng bắt đầu... không còn trẻ nữa, không thể để vợ con ở nhà trông chờ từng chuyến xe, nên em vừa mới giã từ những con đường mà em đã đi qua, nay em định cư yên ổn (hổng còn... ngứa chân nữa) tại New Orleans. Vợ em làm công ty bảo hiểm, em làm đại lý bán hải sản tôm khô cá khô, khi nào chị có dịp đến đây, em sẽ đưa chị đi thăm làng đánh cá Việt Nam để biết thêm.

-          Chúc mừng em, cuối cùng đã... dừng bước phiêu lưu, sống hết với đam mê, nay lui về nhà an hưởng với gia đình nhỏ của mình.

 

Cửa hàng đại lý đồ biển của hắn bỏ mối nhiều nơi trên đất Mỹ. Chắc hắn...đếm tiền mỏi cả tay!

Hai trường hợp thành công của hai người em họ không làm tôi ngạc nhiên. Không phải chỉ những người có bằng cấp lớn mới được gọi là thành công trong cuộc sống. Những tỷ phú như Bill Gates, Mark Zuckerberg và nhiều tỷ phú khác trên thế giới họ chưa từng tốt nghiệp đại học khi làm nên của cải kếch sù.

 

Tại hai chiếc sofa dọc theo tường phòng khách dành cho các bậc lớn tuổi, là Ba tôi cùng ông bà bác, chú thím cũng đang xôn xao những câu chuyện đời. Bác vẫy tôi lại, tâm tình:     

-    Các cháu qua đây muộn nhưng lại may mắn đấy, vì có những người đi trước hướng dẫn, giúp đỡ và cộng đồng Người Việt đã đông đúc khắp nơi.

Chú tôi phụ họa:

-       Đúng thế! Chú và gia đình Bác qua đây năm 1975, người đồng hương hiếm hoi, vắng vẻ, kiếm một món ăn Việt còn khó hơn hái sao trên trời, thèm chai nước mắm cũng không có, đành phải chạy ra tiệm Tàu mua nước tương xài tạm.

 

Tôi nửa đùa nửa thật:

 

-           Nghe nói những năm sau 1975 con gái Việt Nam ở Mỹ hiếm hoi lắm, cứ một cô thì có chục chàng bám theo. Ngay cả nhan sắc...Thị Nở cũng chẳng lo ế phải không chú?

-           Chứ còn gì nữa, trai thừa gái thiếu mà, bởi vì sau đó đa số những người vượt biển đến Mỹ đều là con trai. Gia đình nào cũng "đầu tư" vốn liếng, niềm tin và hi vọng tương lai sáng sủa cho con trai hơn là con gái.

Ông anh kỹ sư Boeing chen ngang:

-        Thì con vượt biển qua đây năm 1979 cũng ...ế bồ dài dài nè, buồn thảm thê, cả ngày chỉ biết lo học hành, chẳng có người yêu, chẳng có phim hay nhạc Việt để giải trí, cuối tuần hì hục đi làm thêm kiếm tiền gửi về Việt Nam.

Tôi mỉm cười, thông cảm:

-          À, mà nhờ vậy mà tụi em ở nhà được đi ...lãnh đồ liên miên, có biết đâu, đó là mồ hôi kiếm tiền mà còn là nỗi buồn trống vắng của người thân mình nơi xứ người.

Ba tôi lên tiếng:

-        Nói vậy thôi, nhưng đó là sự hy sinh rất xứng đáng.

Anh tôi vui vẻ:

-        Thì con có than thở gì đâu, ngược lại, mỗi lần gửi xong một thùng đồ là lòng con hân hoan phơi phới, quên hết buồn!

Tôi reo lên:

-        Đó là anh chưa tận mắt chứng kiến niềm sung sướng bên nhà mỗi khi đi lãnh đồ Mỹ. Ngoài một số đồ để xài, tất cả đều được mang đi ...bán, rồi mua vàng tích trữ, cho người tiếp theo đi vượt biên. Hồi đó, em mê nhứt mấy hộp nho khô màu đỏ có hình cô gái mặc áo đầm, mỗi lần lãnh đồ, em được một hộp nho khô bằng nửa bàn tay, mang đến lớp, chia cho hai đứa bạn thân, nhâm nhi từng ...hột nho khô vì sợ ...hết!!!

Bà Thím góp chuyện:

-        Còn nhà Thím lúc lãnh cái máy cassette cả xóm bu lại xem, trầm trồ nức nở, vui thiệt!

Bà chị Cả của tôi ngồi kế bà Thím phát biểu:

-        Thật ra, đâu chỉ có lãnh đồ mới vui! Lãnh thơ cũng nao nức lắm, thư đọc xong được để trên đầu tủ sách, mấy người đi học, đi làm về muộn là được hỏi: đọc thơ Mỹ chưa, rồi sau khi cơm nước xong, lấy thư ra đọc say sưa, không sót chữ nào, để hình dung ra cuộc sống, tâm tư của thân nhân mình bên đó, vì lúc ấy đâu dám nghĩ có ngày gặp lại!


Bà Thím bồi hồi:

-        Ừa, thuở đó chưa có iphone, facetime như bây giờ, có lần chú gọi điện về thăm vợ con, phải thông qua bưu điện, họ báo cho mình ngày giờ, rồi sáng sớm mấy mẹ con diện đồ ...đẹp (dù biết chú chẳng thấy được), đón xích lô tới Bưu Điện Sài Gòn kế bên Nhà Thờ Đức Bà. Đợi chờ một hồi, được  kêu tên mà run rẩy, hồi hộp bước vào phòng, vừa nghe tiếng chú cất lên là mấy mẹ con khóc rào rào ...

Rồi mỗi người một câu, từ bàn phòng ăn, phòng khách, rộn ràng không ngớt tiếng nói cười! Tôi đi bộ ra ngoài cửa, trời đêm gió mát rượi. Tôi không còn thời gian để “phỏng vấn” những dâu, rể của gia đình, hoặc “phỏng vấn” đám trẻ thế hệ thứ ba, sẽ còn rất nhiều câu chuyện, nhưng xin được hầu quý vị trong một bài viết khác.


Đám trẻ ngoài garage lục tục kéo nhau ra hai chiếc xe, chúng gọi tên nhau í ới, đi ăn đêm tại tiệm Taco Bell nổi tiếng của Texas. Tôi nhìn theo đến cuối con đường, rồi nghe tiếng nói chuyện trong nhà vọng ra vẫn rộn ràng, rồi ngắm khu phố yên tĩnh xung quanh...

Tạ ơn nước Mỹ, Canada, và các quốc gia khác mà người Việt đã chọn làm quê hương thứ hai, đã cho chúng ta những cảm nghiệm tuyệt vời kể từ khi cuộc đổi đời phải giã từ quê hương. Mảnh đất mới, thực sự là nơi chốn bình yên, hạnh phúc nếu chúng ta biết cố gắng, hài lòng và tận hưởng những thành quả trong tầm tay!

KIM LOAN

Ý kiến bạn đọc
23/08/202219:42:09
Khách
Toi rat thich doc cac bai viet cua tac gia Kim Loan
23/08/202216:01:31
Khách
Cuộc hội ngộ đầy yêu thương và hạnh phúc !Thật tuyệt vời miền đất mới đã ghi nhận công lao mà đại gia đình đã xây dựng
19/08/202223:43:56
Khách
Quá hay , mẩu chuyện chi tiết để hiểu được cuộc sống của người việt tị nạn bên xứ người ! Cám ơn em
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 495,978
Ngồi một mình trong căn phòng vắng, mọi người đang vui chơi ở đâu đó cuối tuần để lại cho tôi một cơ hội, một dịp mà tôi thích lắm, thích nhất từ ngày đặt chân đến đất Mỹ, đó là một không gian riêng tư cho mình Những ngày bơ vơ lạc loài bước chân ngỡ ngàng đến Mỹ. Ngày đó ai cũng như nhau là cùng sống chen chút nhau thật đông trong những căn nhà mướn, căn phòng quá tải… nhưng thôi điều đó không thật sự làm buồn phiền tôi, nhưng tôi chỉ ao ước cho tôi một khoảng không gian, thời gian yên tĩnh cho tôi quá khó , không hề có...
Vắt qua dòng sông có đến mười mấy cây cầu, những cây cầu bằng sắt thép, kiểu cách như cầu Bình Lợi, Bình Triệu vậy… Những cây cầu có tuổi đời năm mươi năm, một trăm năm nhưng vẫn tiếp tục trách vụ kết nối đôi bờ. Có những cây cầu quay, mở ra để cho tàu thuyền qua lại, ngày nay nó đã không còn được sử dụng nữa. Nó được kéo cao lên và giữ nguyên như thế để làm di tích lịch sử. Những cây cầu mở ngày xưa giờ trở thành nhân chứng cho một thời vàng son chưa xa lắm.
Ba cứ khăng khăng là không có tay trồng trọt. Tôi không tin, phần thì ăn xà lách hoài cũng ngán, chúng tôi thèm những thứ rau có mùi, mang hương vị quê nhà. Thử tưởng tượng ăn thịt gà trộn muối tiêu mà không có rau răm, ăn bánh tráng cuốn thịt ba rọi cũng chỉ với xà lách. Hành ngò thì cũng có nhưng khá đắt, kể cả những thứ rau mùi cũng có bán ở chợ Việt Nam, chợ Thái Lan nhưng rất mắc và quan trọng là không có ai chở mình đi chợ. Tôi lải nhải nhắc Ba: Không có việc gì khó, chỉ sợ mình… không trồng!
Ông Chương thức dậy thật sớm sau một đêm khó ngủ trằn trọc, dù ông đã nghe mấy bài phật pháp do thầy Pháp Hòa giảng để dỗ giấc ngủ. Bên ngoài cây cỏ còn ngái ngủ dưới lớp sương dày đặc, chưa thấy mặt trời lên. Ông rón rén đi pha cà phê thật nhẹ nhàng, cố gắng không gây tiếng động làm mất giấc ngủ cả nhà...Tách cà phê thơm phức nóng hổi gây cho ông cảm giác dễ chịu. Ông lặng yên như đang lật trang đời từ ngày qua định cư nước Mỹ …Nhớ ngày miền Nam bị mất, ông đi tù 5 năm trở về, lúc ấy ông chỉ mới ngoài 30 tuổi, người yêu đã sang ngang, cùng lúc mất tất cả. Ông chán chường cuộc sống chẳng thiết gì nữa, nhưng mấy năm sau duyên nợ đến cho ông gặp được cô giáo dạy mầm non tên Dung, không chê ông nghèo tối ngày đi “dọc đường gió bụi”. Hai người nên duyên và hơn năm sau cháu Việt ra đời, đến cháu Nga, cháu Nguyệt, và con trai út là cháu Quân. Gia đình ông ở ké nhà mẹ vợ, ông làm đủ thứ nghề ai kêu gì chạy đó, sau có được chiếc xe đạp thồ đón khách.
Sáng thứ Bảy cuối tháng 5 trời trở lạnh với mây mù và vài thoáng mưa phùn. Tự nhiên tôi chạnh lòng nhớ đến đàn chị Nguyễn Tinh Châu. Mai là ngày giỗ 3 năm của Chị. Thời gian qua thật nhanh. Sự ra đi của Chị quả là một mất mát lớn cho Hội YKH chúng ta, không những vì Chị là một trong những hội viên kỳ cựu, mà vì những hoạt động xã hội đắc lực của chị trong kêu gọi và thành lập quỹ cứu trợ nạn nhân cho nhiều thiên tai tại Mỹ, Nhật (Tsunami, 2011), Phi Luật Tân (Typhon Haiyan, 2013) và ngay cả Việt Nam (Bão Xangsane, 2006)…Và nhất là quỹ tương trợ hàng năm nhằm giúp đỡ các Thương Phế Binh sống cùng cực tại quê nhà. Con số đóng góp luân chuyển từ 8 ngàn đô cho đến 10 ngàn đô nói lên được sự nhiệt tình của Chị và của anh chị em chúng ta cho một mục đích chung, đúng, xứng đáng, nhân nghĩa và truyền thống.
Hồi đó, trong những kỹ sư mới ra trường về làm cho Bưu Điện, anh là một người tôi không ưa nhất, và có lẽ tôi cũng là người anh ghét nhất. Anh đẹp trai, con nhà giàu, mỗi cái tội mặt kênh kênh và cái giọng Huế. Cái giọng nói nặng trịch, oang oang sao mà khó ưa. Không những tôi mà cả mấy đứa bạn cùng cơ quan mỗi khi thấy anh đi ngang là che miệng cười nhái: đi mô rứa tề. Tôi ghét nhất là có lần anh lái xế hộp chở mấy ông bạn đi uống cafe, thấy tôi đi ngang mấy người bạn bảo dừng xe rủ tôi đi cùng, anh nói kệ nó, cái con nhỏ phách lối. Sau này thân nhau rồi, có lần tôi hỏi tại sao anh làm vậy, anh trả lời, “Lúc nào cũng thấy mấy thằng bạn cùng lớp xoay quanh em, mà mặt em cứ tỉnh bơ như thể ta là cái rốn vũ trụ, nhìn xốn mắt!”
Bà tiếp tục: Gia đình chúng tôi vượt biên theo diện “bán chánh thức” do nhà nước tổ chức. Mỗi đầu người phải đóng đủ 15 “cây” vàng. Gia đình gồm 10 người đúng ra phải đóng 150 cây nhưng đứa gái út lúc đó mới có 10 tuổi (giờ đây đã là bác sĩ sản khoa nổi tiếng ở thành phố này) nên nhà nước “ nhân đạo” cho đóng nửa suất là 7 cây rưỡi. Vậy là gia đình đóng tổng cộng 145 cây rưỡi để được ra khơi, còn có thoát được hay không thì không ai chịu trách nhiệm. Con tàu có sức chứa 180 người nhưng người ta đã thu vàng và cho lên tàu đến 240!” “Bước đầu mới đến Mỹ cũng như biết bao thuyền nhân khác, chúng tôi phải đối mặt với vô vàn khó khăn và làm nhiều việc khác nhau để mưu sinh, ổn định đời sống và tiếp tục cho con ăn học thì không phải là dễ dàng gì, nhưng cũng không phải là khó lắm nếu mình có quyết tâm. Ông thì sang một cửa hàng bán sandwich và thức ăn nhanh (fast food ) học chế biến thức ăn và tự điều hành cửa hàng, còn tôi thì đi làm trong hãng đóng gói đồ nữ trang,
Nhưng, định mệnh vẫn còn muốn trêu ngươi tôi. Cơn bệnh ung thư ngực quái ác đã tìm đến với tôi, như thêm một đòn giáng chí mạng vào cuộc đời bất hạnh. Tiền bạc không có. Bảo hiểm sức khỏe không có. Người thân không có. Luật lệ, kiến thức của xứ người tôi cũng không có. Sẽ như thế nào, những ngày trước mắt của ba mẹ con tôi?
Nói đến những chuyện lừa gạt, hẳn mọi người cũng đã biết qua, từ tin tức báo chí, trên đài truyền hình, và rất nhiều chuyện phỉnh gạt thường xuyên xảy ra được truyền miệng từ người này qua người khác đã lâu rồi. Trong thời gian dịch bệnh, cấm cửa, lạm phát, kinh tế khó khăn, nên đã sinh ra nhiều chuyện lường gạt đảo điên không ai lường trước được. Con người nghĩ ra đủ cách để mà lường gạt nhau. Cùng lúc, đã vậy lại còn nhiều điều không may đã ập đến, không trở tay kịp, khiến cho cuộc đời đang lo toan dịch bệnh lại thêm lo lắng, vừa tình hình dịch bệnh, lại thêm thế thái nhân tình, nhân cơ hội, lợi dụng tình thế mà gia tăng, đã làm cho tinh thần mọi người càng thêm căng thẳng gấp bội.
Sang Mỹ, Mị thấy các chùa chiền, Thiền viện như những trung tâm sinh hoạt cộng đồng của người Việt. Mỗi cuối tuần các đồng hương có thể tụ về chùa để tu tập, để trò chuyện bằng tiếng Việt, để chia sẻ, để cảm nhận được không khí cộng đồng Việt. Ngày Tết cổ truyền, bà con đồng hương Phật tử xa quê lại có dịp vãn cảnh chùa với những trang trí quen thuộc ngày Tết, có hoa mai, hoa đào. Nhiều chùa chiền và thiền viện còn công phu trang trí cảnh sắc làng quê Việt Nam, để những người con xa xứ tìm chút hương vị quê hương, giúp cho Phật tử thuần thành hay “Phật tử ngang hông” như Mị cảm nhận được thiện ý chan hòa, hoan hỷ. Mái chùa như là nơi chở che hồn Việt. Dù đi chùa để tu học Phật pháp, hay để nương tựa tâm hồn trong những ngày đau khổ chông chênh, hay chỉ đơn giản là ham vui và bớt sân si như Mị thì Mị tin rằng mỗi người khi trở về đều đem theo mình chút niềm vui an lạc trong giai đoạn nhiều bất ổn trên cả thế giới như hiện nay. Mị thấy mình được sống trong môi trường an toàn và tự do...
Nhạc sĩ Cung Tiến