Hôm nay,  

Hành Trình Để Trở Thành Người Mỹ

19/09/201900:00:00(Xem: 11336)

Bài số: 5791-20-31597-vb5091919

 

Tác giả tên thật là Đặng Thống Nhất, một nhà giáo hồi hưu. Sau nhiều năm dạy Song Ngữ và ESL tại Khu Học Chính Minneapolis và Việt Ngữ tại Đại Học Minnesota. Người di dân tại Hoa Kỳ một chủ đề quan trọng cho học sinh tị nạn khi ông dạy trong chương trình Song Ngữ tại Minneapolis. Bài  được viết lại khi gần đây câu sỉ nhục nặng tính kỳ thị kiểu KKK  thường xuất hiện trở lại: “Go back where you come from”

 

***

Thấm thoát tôi đã sống một thời gian dài trên đất Mỹ hơn cả một nửa đời người với bốn mươi bốn năm dòng dã và hôm nay ngồi nghĩ lại mình đã là người Mỹ chưa hay là nửa Mỹ nửa Việt?

Vậy người Mỹ là ai? Có phải là ông Mỹ da trắng gốc Na-uy, người điều khiển chương trình giáo dục Song ngữ và ESL của Khu Học Chính Minneapolis khi tôi mới vào làm hay là vợ chồng gốc Mễ Tây Cơ mới dọn từ California đến ở cạnh nhà tôi hay là ông bạn quí gốc “da đỏ” đồng nghiệp với tôi?

Các nhà chính tri gia và dân Mỹ đều hãnh diện cho rằng nước Mỹ là nước của người di dân nơi mà gia đình của mọi người tới sống để kiếm tự do hay cải thiện cuộc sống. Ngay cả Tượng Nữ Thần Tự Do cầm đuốc soi sáng tại Đảo Liberty ở New York cũng là người di dân. Tượng này là món quà thân hữu của Pháp được nhập cảnh và khánh thành vào năm 1886.

 

Thổ dân Mỹ Châu

 

Ngay cả người Mỹ đầu tiên cũng là di dân. Họ được gọi là Paleo-Indians đến Châu Mỹ từ Á châu hai mươi ngàn năm về trước qua ngả Beringa, cầu thiên tạo nối liền Châu Á và Châu Mỹ nay gọi là eo biển Bering. Những dân này sống rải rác trong các bộ lạc mà họ gọi là quốc gia. Mỗi bộ lạc có tiếng nói riêng và hầu hết được tổ chức theo chế độ gia đình truyền từ đời này sang đời kia. Các bộ lạc thường trao đổi hàng hóa với nhau. Dân bản xứ tin vào sức mạnh của linh hồn hiện diện trong thiên nhiên mà người lãnh đạo tôn giáo được gọi pháp sư hay shaman. Họ cũng tin rằng con người cần phải sống hòa đồng với nhau.

Vào năm 1492 ông Christopher Columbus, nhà thám hiểm và thuyền trưởng Ý, đã có ý định kiếm con đường gần hơn đến Ấn độ nhưng ông và ba thuyền của ông là Santa Maria, Pinta và Nina xuất phát từ Tây Ban Nha cặp đến đất Châu Mỹ mà cứ tưởng là Ấn độ. Vì vậy ông gọi dân bản xứ là người Indians và Châu Mỹ sau đó được gọi là Tân Thế Giới. Thường trong sách giáo khoa hồi xưa chúng ta học dạy rằng Christopher Columbus này là người khám phá ra Châu Mỹ nhưng thật ra người bản xứ sống cả ngàn năm trước họ chính là người khám phá ra ông và đoàn tùy tùng.

Hãy nghe một dân bản xứ vô danh nói về cách đối xử của người da trắng với thổ dân:

“Khi các ông đến đất chúng tôi, các ông không mở rộng vòng tay nhưng các ông mang Thánh Kinh, súng đạn và bệnh tật. Các ông chiếm đất của chúng tôi. Các ông giết chúng tôi với súng đạn và bệnh tật rồi còn ngạo mạn gọi chúng tôi là đồ mọi rợ vô thần.”

Quả đúng như vậy. Vào đầu thế kỷ 16 trong khi binh lính xâm lược Tây Ban Nha và nhà buôn da thú người Pháp cạnh tranh nhau về đất đai và tài nguyên trên Tân Thế Giới còn các nhà truyền giáo Âu châu hăng say bằng bất cứ giá nào muốn truyền bá Ki tô giáo cho dân bản xứ là những người chưa được nghe phúc âm bao giờ. Kết quả của công cuộc truyền giáo là phần nhiều thổ dân có cảm tình lẫn lộn với văn hóa và tôn giáo mới này. Nước Mỹ lúc đó đang bành trướng đất đai và các giáo sứ cũng được thành lập và gia tăng từ Florida cho đến California.

Trước khi người da trắng đến dân bản xứ sống biệt lập yên ổn trên đất ông cha để lại nhưng khi người Âu châu đến thì đời sống của họ bị đảo lộn mọi mặt. Chiến tranh xẩy ra vì dân da trắng Mỹ gốc Âu châu nghĩ dân bản xứ là dân mọi rợ thiếu văn minh nên họ dùng vũ khí bạo lực để dành đất xua đuổi họ đi nơi khác với ngụy luận đất Mỹ là thiên định hay “manifest destiny” nên dân da trắng có quyền mở mang quốc gia mới “của” họ.

Trong khoảng năm 1830-1850 các bộ lạc ở miền Đông Nam nước Mỹ bị bắt buộc rời đất mẹ của họ đến miền Tây của sông Mississippi gọi là Lãnh Thổ Người Da Đỏ. Trên đường đi bao nhiêu dân bản xứ chịu bao nhiêu gian nan đau khổ với bệnh tật, đói khát và nhiều dân đã tử vong trước khi đến “ vùng kinh tế mới”. Máu và nước mắt đã chảy dài trên con đường mòn dài đăng đẳng này vì thế con đường này được gọi là Đường Mòn của Nước Mắt hay “Trail of Tears”.

Thêm vào đó khi các nhà thám hiểm người Anh, Pháp và Tây Ban Nha tiếp xúc với Tân Thế Giới họ mang theo nhiều kỹ thuật và cách sống hoàn toàn xa lạ đối với dân bản xứ nhưng họ cũng mang một kẻ thù tiềm ẩn cho thổ dân: bệnh tật mới. Dân bản xứ không có tính miễn nhiễm với các bệnh tật của người Âu châu nên họ mắc bệnh nhanh chóng khi trực tiếp tiếp xúc với người da trắng trong khi người da trắng quen với các bệnh này. Bệnh như đậu mùa, cúm, sởi, thủy đậu...đã lan tràn tới thổ dân mà thổ dân không biết cách cứu chữa và đã làm họ gần như tuyệt chủng.

Ngày nay có khoảng hơn năm triệu dân bản xứ sống trên đất Mỹ. Tôi có người bạn đồng nghiệp là dân bản xứ có ông nội người Ba Lan nên có nhiều dịp học hỏi về lịch sử và văn hóa của bộ lạc Ojibway mà ông thuộc bộ lạc này.

 

Người gốc Âu châu

 

Sau khi Christopher Comlumbus đặt chân đến Mỹ châu thì có nhiều sắc dân Âu châu sang lập nghiệp. Vào thập niên 1950, người Âu châu đầu tiên là dân Tây Ban Nha và Pháp. Vào năm 1607, người Anh sang định cư tại Jamestown thuộc Thuộc Địa Virginia. Sau đó vào năm 1620 một nhóm người Pilgrims tránh sự ngược đãi tôn giáo tại Âu châu và sang Mỹ lập một thuộc địa tại Plymouth, Massachussetts rồi có nhóm người Puritan (Thanh giáo) cũng sang Mỹ kiếm tự do tôn giáo và định cư tại Thuộc Địa Vịnh Massachus- setts (Massachusetts Bay Colony).

Các thuộc địa của Anh quốc được thành lập dọc theo bờ biển Đại Tây Dương, từ Maine cho tới phía bắc của Georgia. Thuộc địa củaThụy Điển và Hòa Lan được thành lập chung quanh New York. Trong thập niên 1600 và 1700 có nhiều chiến tranh vì tranh chấp đất đai trong khi có nhiều di dân tới Tân Thế Giới.

Pháp và Anh gây gổ với nhau nên xẩy ra cuộc chiến tranh Pháp và Thổ Dân hay French and Indian War (1754-1763). Anh Quốc thắng trận nên chiếm cứ Canada và cai trị 13 thuộc địa.

Hai nhóm di dân đến nhiều nhất trong giữa thế kỷ 18 là người Đức và Ái Nhĩ Lan sau đó là người Ý, người theo đạo Do Thái và người Đông Âu.

Ý niệm Hiệp Chủng Quốc là một lò luyện thép “ melting pot” khi dân chúng của nhiều quốc gia kết hợp lại và tạo ra người Mỹ rất thịnh hành khi nói về nước Mỹ. Tuy vậy người Mỹ lúc đó đã không mở rộng bàn tay và nhiều khi từ chối nhập cảnh nhiều nhóm di dân. Nhiều người định cư gốc Âu châu đến trước khinh thường các giống dân khác mới đến dù rằng họ là người xây dựng đường xá, đường xe lửa, nhà cửa, đào than đá và sắt... cho nước Mỹ.

Lúc đó theo ý của nhiều người thì người Mỹ “chính gốc” là người da trắng, theo đạo Tin lành và nói tiếng Anh.

 

Người da màu gốc Phi châu

 

Dân thuộc địa cũng muốn dùng thổ dân làm lao công trong các đồn điền thuốc lá hay bông vải nhưng bệnh dịch đã tiêu diệt họ gần hết nên dân thuộc địa nghĩ ra một lớp lao công khác: nô lệ người Phi Châu.

Trong suốt thế kỷ 17, các nhà lập nghiệp Âu châu ở Bắc Mỹ đã dùng nô lệ Phi Châu là nguồn lao động rẻ tiền và dồi dào bằng cách “nhập cảng” các nô lệ coi như là “hàng hóa”từ Phi Châu thay vì dùng các người làm mướn nghèo gốc Âu châu. Họ đã dùng ba chặng hàng hải trong công việc này. Chặng thứ nhất hay “Outward passage” là tàu xuất phát từ Âu Châu với hàng hóa tới miền Tây Phi Châu và nơi đây chủ tầu trao đổi hàng hóa và mua nô lệ. Những người nô lệ này thường bị ruồng bắt trong các vụ tấn công tại làng của họ hay mua lại từ những con buôn. Sau đó tàu di chuyển sang Mỹ châu có sức chứa khoảng 250-600 nô lệ một tàu và được gọi là chặng giữa hay “Middle passage”. Nô lệ sống chen chúc thiếu vệ sinh trong khi bị xiềng xích và ngủ trên bãi chất thải của họ. Có chừng 20% người nô lệ bị tử vong vì bệnh dịch, tra tấn vì chống đối hay tự vẫn trong hành trình trần ai kéo dài từ sáu đến tám tuần.

Sau khi cặp bến, các người nô lệ được mang ra chợ bán cho con buôn như một món hàng và trở thành người lao động không lương suốt đời tại các đồn điền của Mỹ. Buôn bán nô lệ xong các chủ tầu giầu có lại mua các nguyên liệu thô như thuốc lá, đường, lông thú, bông vải của Mỹ... để mang về Âu Châu là chặng kết thúc hay “Return passage”. Đây là hành trình mậu dịch tam giác hay “triangular trade passage”.

(còn tiếp một kỳ)

 

Đặng Hà Nội

 

 

Ý kiến bạn đọc
20/09/201916:15:19
Khách
Phai song lau tren nuoc My moi hieu nguoi My. My co tu do ngon luan nen nguoi ta phat bieu nhieu khuynh huong khac nhau, sai va dung. Phong theo loi TT Thieu ngay xua noi, thi co the tom tat la “Dung nghe nhung gi My noi, ma hay nhin nhung gi nguoi My lam”. Dan Minnesota da trang keo nhau bo phieu bau cho dan bieu Omar nguoi da den, hoi giao. Co mot ong da trang lay vo bac si, nay lai ly di de di theo ba hoi giao Omar da den, co 3 doi chong con, nhu the thi thay dan da trang cung rat thich nguoi da den. Khi ba Omar ve lai Minneapolis, dan da trang keo nhau den phi truong chao don hoan ho nhu don ruoc nu than. My tuy co nhung khuyet diem, nhung dan chung khong do xo vuot bien, va dan ngoai quoc do xo den My. Khong Tu xua co ke chuyen che do ha khac doc hai hon ho du, cho thay tai sao nuoc My van la nhat, mac du bao chi thien ta tuyen truyen.
20/09/201915:05:51
Khách
Bai viet rat hay. That toi nghiep cho nhung nguoi no le ngay xua.
Tac gia viet:
“Sau đó tàu di chuyển sang Mỹ châu có sức chứa khoảng 250-600 nô lệ một tàu và được gọi là chặng giữa hay “Middle passage”. Nô lệ sống chen chúc thiếu vệ sinh trong khi bị xiềng xích và ngủ trên bãi chất thải của họ. “
Nam 1976 nguoi VietNam cung dua nhung nguoi di cai tao ra mien bac trong nhung chuyen tau y het nhung tau cho no le hon 100 nam truoc. Nhieu nguoi Viet dang song hay du hoc o My co the la con chau cua nhung nguoi bo doi, thuy thu hay thuyen truong nhung tau cho cai tao. Nguoi My da xau ho ve su doi dai no le tan te, nhung den bao gio nguoi Viet cam thay xau ho khi ho doi xu tan te voi nguoi di cai tao?
19/09/201923:29:56
Khách
Xin đính chính người Tây Ban Nha và Pháp sang Mỹ lập nghiệp vào thập niên 1590 thay vì 1950.
19/09/201909:57:40
Khách
Thơm ngon, béo bổ với hương vị và màu sắc mới.
Món ăn tinh thần này của anh thuộc hàng... đặc sản!
Cám ơn anh Đặng Hà Nội đã khoản đãi mọi người một món ngon, lạ miệng.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 4,119,959
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ. Bà là một chuyên viên xã hội, từng nhiều năm làm việc tại Trung tâm Cao niên một thành phố tại Bắc California. Bà cho biết muốn tham gia viết về nước Mỹ từ lâu, nhưng phải chờ tới khi về hưu mới thực hiện được ý nguyện. Bài viết đầu tiên của bà là "Bà Ngoại Khác Chủng Tộc". Sau đây là bài viết thứ hai của tác giả.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ khi tuổi ngoài bát tuần. Bà tên thật là Nguyễn thị Ngọc Hạnh, cùng gia đình tới Mỹ từ 1979, hiện là cư dân hưu trí tại miền Đông. Bài viết đầu tiên là thư kể về mùa đông băng giá khác thường tại vùng Thủ Đô Hoa Kỳ. Sau đây, bài viết thứ ba là chuyện về mùa xuân và hoa đào.
Tác giả là một nhà giáo, tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Huế năm 1972, đã dạy văn tại Huế 18 năm. Đến Mỹ 1990, đi học và trở lại nghề nhà giáo. Hiện dạy tại 2 trường California State University, Sacramento - Cosumnes River College, và Sacramento, California. Bà cũng từng là hôi trưởng, điều hành Trung Tâm Việt Ngữ Lạc Hồng, Sacramento, từ 1995-1997. Tác giả đã nhận Giải Danh Dự Viết về nước Mỹ 2009, với bài viết Levina, chuyện một thiếu nữ có mẹ Việt và bố là chiến binh Mỹ gốc Phi Châu bị giết tại Tân Sơn Nhất cuối tháng Tư 1975.
Tác Giả lần đầu tham dự VVNM từ tháng 7/2018. Tại Saigon trước 1975, Huỳnh Mai Hoa học Đại Học Văn Khoa, có làm thơ và viết truyện ngắn đăng trên vài nhật báo ở Saigon. Qua Mỹ năm 1993 theo diện HO của chồng, làm nghề tóc.
Tác giả là một cựu tù cộng sản, hiện sống ở Vail, Arizona, làm việc theo một hợp đồng dân sự với quân đội Mỹ, từng tình nguyện tới chiến trường Trung Đông và Châu Phi. Với bài viết của một dân sự gốc Việt từ căn cứ Mỹ tại Afganistan, ông nhận giải Danh Dự VVNM 2018. Sau đây, thêm một bài viết mới.
Với bài viết đầu tiên từ tháng Sáu 2017, tác giả đã nhận giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ năm thứ XIX. Bước sang năm thứ 20 của giải thưởng, tác giả tiếp tục cho thấy sức viết ngày càng mạnh mẽ hơn. Sau đây thêm một bài viết mới.
Tác giả tên thật Trịnh Thị Đông, hiện là cư dân Arkansas. Bà sinh năm 1951, nguyên quán Bình Dương. Nghề nghiệp: Giáo viên anh ngữ cấp 2. Tới Mỹ vào tháng 8, 1985, bà dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7, 2016 và đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2017. Sang năm 2018, Dong Trinh có thêm giải Vinh Danh Tác Giả, thường được gọi đùa là giải Á hậu. Sau đây, thêm một bài viết mới của tác giả.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ năm 2017. Bà sinh năm 1951 tại miền Bắc VN, di cư vào Nam 1954, là thư ký hành chánh sở Mỹ Defense Attaché Office (DAO) cho tới ngày 29 tháng Tư 1975. Vượt biển và định cư tại Mỹ năm 1980, làm thư ký văn phòng chính ngạch tại City of San Jose từ 1988-2006. Về hưu vào tuổi 55, hiện ở nhà chăm nom các cháu nội ngoại. Tác giả nhận giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ năm 2018. Sau đây, thêm một bài viết mới của bà.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7/2018, với bài “Thời Gian Ơn, Ngừng Lại”. Tên thật: Nguyễn Thị Kỳ, Bút hiệu: duyenky. Trước 30.4.1975: giáo viên Toán Lý Hoa-Tư thục-Saigon-VN. Sau 30.4.1075: giáo viênVật Lý - Q.10 -Tp HCM – VN. Theo chồng và 3 con gái đi Mỹ diện HO năm 1999, định cư tại Chicago-IL-USA. Sau đây là bài viết thứ hai. Mong tác giả tiếp tục.
Tác giả đã nhận Giải Việt bút Trùng Quang 2016 và thêm Giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2018. Ông tốt nghiệp cử nhân về Ngôn Ngữ Học tiếng Tây-Ban-Nha tại UC Irvine. Sau 5 năm rời trường để theo học tại UCLA, tốt nghiệp với hai bằng cao học và tiến sĩ về ngành Ngôn Ngữ Học các thứ tiếng gốc La-Tinh, ông trở lại trường cũ và thành người đầu tiên giảng dạy chương trình tiếng Việt, văn hoá Việt từ năm 2000 cho tới nay.
Nhạc sĩ Cung Tiến