Hôm nay,  

Chuyện Hậu Tháng Tư: Ngôi Nhà Đã Mất

09/05/201900:00:00(Xem: 9405)
Tác giả: Minh Nguyệt Graves
Bài số  5684-20-31491-vb5050919

Tác giả cùng hai con gái tới Mỹ ngày 27 tháng Bảy năm 2001 theo diện đoàn tụ. Mười sáu năm sau, bà là chủ tiệm Nails ở Texas và kết hôn với một người Mỹ. Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ và đã nhận giải Danh Dự năm thứ mười chín, 2018. Bài viết mới là chuyện ngôi nhà đã mất sau tháng Tư 1975.

 ***

Tháng Tư, 1975, bước ngoặt bi thương của lịch sử đã thay đổi cuộc đời của bao nhiêu số phận con người. Riêng tôi,  cứ mỗi lần tháng Tư về, tôi lại nhớ ngôi nhà cũ.

Hơn 40 năm từ khi xa ngôi nhà, nhưng những kỷ niệm xưa vẫn còn in đậm mãi trong lòng tôi.

Ba tôi được đổi về Huế làm ở toà hành chính năm 1963, và một năm sau thì mua ngôi nhà ở đường Mai thúc Loan. Đó là một căn trong khu chung cư cho công chức- những người làm việc cho chính phủ- được thiết kế giống như nhau. Trong hồ sơ giấy nhà, tôi vẫn còn giữ do có thời gian ba tôi ở nhà tôi, thì nhà có hai phần, phần nhà ở và phần vườn. Sau đó mấy năm, ba tôi xây thêm có mái che để làm nhà máy sản xuất nước đá và kem cây.

Ban đầu ba tôi chỉ là thư ký toà hành chánh, rồi mấy năm sau, ông được đi học tiếp và tốt nghiệp trường Quốc gia hành chánh. Đến năm 1969 thì ông được cất nhắc lên làm Phó tỉnh trưởng. Năm 1972 ông lại thuyên chuyển vào Sài gòn làm phát ngân viên ở Tổng nha nhân dân tự vệ, cho đến tháng 4 năm 1975.

Chỉ mấy ngày sau 30 tháng 4, 1975 khi cả gia đình tôi đang chạy tản cư ở Đà nẵng, thì ba tôi bị bắt đưa đi tù- mà nói theo ngôn ngữ thời đó là cải tạo trên Tiên Lãnh, mãi đến tám năm sau ông mới được tha về.

Trong lúc đó, ở nhà có biêt bao nhiêu là đổi thay!

Chiến tranh kết thúc, mạ tôi dẫn bầy con về lại Huế. Thành phố hoang tàn, không còn xe hơi chạy, cả xe máy cũng hiếm dần, vì bị cấm. Tôi thấy mọi thứ đều thay đổi, từ áo quần người ta mặc cho tới giày dép. Ngoài đường mấy cái loa nói suốt ngày, trời mưa còn đỡ, trời nóng nghe rất nhức đầu, nhất là buổi trưa đi học về đói bụng. Người lớn như mạ tôi thì tối tối phải đi tập trung nơi sân của phường để họp hành.

Ban ngày, mạ tôi cứ đi quanh nhà những người quen, ai muốn mua hay bán gì thì nói với bà, rồi kiếm tiền chênh lệch, chứ trước 1975 thì ba tôi đi làm lãnh lương, mạ chỉ ở nhà nội trợ là chính.

Thỉnh thoảng tôi lại nghe mạ và các anh chị trong nhà bàn tán “Nhiều nhà của bạn bị lấy, không biết khi mô thì tới phiên nhà mình đây?”

Rồi một hôm gia đình tôi nhận được giấy “mời” lên đồn công an.

Buổi sáng mạ tôi đi một mình, tới gần trưa thì 2 chiếc xe Jeep chở bà về, cùng rất nhiều người lạ.

Họ, gần 10 người mặc đồng phục, đã bắt những người có mặt trong nhà đứng quanh phòng khách và đọc “cáo trạng” phải bị tịch thu tất cả tài sản, bao gồm căn nhà, nơi cả gia đình gồm một bà mẹ và 8 người con đang trú ngụ!

Họ vào lùng sục khắp nơi, tôi không hiểu gì, chỉ đứng trơ mắt ngó, bị ông anh la mà không hiểu vì răng mình bị la!

Ổng nạt tôi, “Cái con ni, mấy cái hộp đựng đồ chơi ni mà cứ vất tùm lum ri, đem đi cất đi, tau mà còn thấy là bị đánh cho no đòn luôn!”

Nhận lấy cái hộp từ tay anh, rồi lúp xúp chạy vô bỏ trong cái cặp táp đi học, nước mắt rơm rớm, muốn cãi mà không dám, vì nhà đang đông đúc! Tự nghĩ, “Cái hộp ni có phải của mình mô? La oan rứa mà không cho cãi!”

Sau mới biết đó là hộp Mạ tôi đựng nữ trang, nên anh muốn tôi dấu, không thôi cũng bị tịch thu luôn. Lúc đó, tôi 13 tuổi, đang học lớp 8.

Họ cũng bảo rằng, gia đình nếu muốn đi kinh tế mới thì họ sẽ giúp cho phương tiện để đi, hoặc về quê chồng.

Vậy là ngôi nhà của ba tôi đã mất. Đi kinh tế mới thì không được rồi, vì mạ tôi cả đời là dân thành phố, đâu có biết ruộng nương là gì? Bầy con thì còn nhỏ, đang đi học, lấy chi mà ăn? Chỉ còn cách xin về quê nội.

Mạ tôi xin ông nội cho tá túc nơi căn nhà lợp tôn phía sau của ông, trước kia được dùng làm cái quán bán tạp hoá. Cái quán bề ngang 3 mét, chiều dài cỡ 10 mét hướng ra đường Đoàn thị Điểm, còn căn nhà chính phía hướng ra đường Mai thúc loan.

Vì nhà xưa nên cái gì cũng cũ! Tôi nhớ cái cầu tiêu bởi vì nó nằm ngoài khuôn viên nhà, và lâu ngày thì bị hư. Vậy là chúng tôi phải đi qua bên bờ hồ để “giải quyết nỗi lòng!” Nhưng đó là buổi tối thôi, chứ buổi ngày đâu có đi được? Vậy là phải đi trong bô, rồi đào đất ngoài vườn chôn!

Nước dùng thì phải đi gánh ở giếng nước cách đó 3 nhà. Nước uống từ mấy cái “rô bi nê” chảy từng giọt như nước mắt, tối nào mấy chị em gái cũng thay nhau thức khuya ngồi hứng để hôm sau có mà nấu ăn.

Bếp thì mạ tôi xin cái thùng sau xe Lambretta của bác Thoại, để dưới gốc cây Nhỡn cho tụi tôi ngồi đỡ mưa mà nấu. Củi ướt, nên khói ghê lắm, vừa phì phò thổi lửa, vừa phải học bài, tới khi nấu xong được nồi cơm thì cái quần cũng ướt sũng vì nước mưa rơi lõm tõm xung quanh cái thùng xe.

Thời gian đó thiệt là khổ!

Người ta nói, “Bần cùng sinh đạo tặc,” khổ quá nên ăn trộm như rươi! Hở cái chi ra là mất cái nấy. Tôi nhớ nhất là chị con cậu ở Đà nẵng gởi ra cho cái quần cũ để mặc đi học, tôi mừng lắm, đem đi giặt, dự định phơi qua đêm để sáng mai có mặc. Trời nhá nhem tối, tôi nghĩ, “Phơi trên sợi dây treo ngoài trời cho ráo nước, rồi đem vô móc trong nhà,” ấy vậy mà trong lúc vừa ngồi học bài vừa ngó chừng cái quần, cúi lên cúi xuống viết thì cái quần "bay" mất!

Ngoài chuyện khổ về thể chất, còn nhiều chuyện khổ oái oăm hơn nữa.

Sau khi học xong lớp 9 thì chúng tôi phải thi lên lớp 10. Tôi tuy không thuộc loại thông minh xuất sắc, nhưng cũng thuộc loại học sinh giỏi chăm ngoan. Vậy mà kỳ thi đó tui rớt cái bịch! Và sau đó mới biết, tôi không phải là đứa duy nhất có lý lịch “xấu" bị rớt. Một năm ở nhà, tôi đi học thêu ren trên Thuận hoà, gần cống Thủy quan, thỉnh thoảng phải chia phiên nhau để ngủ trực, (không biết trực để làm chi?) có bữa bị “Thằng đèn pin” rọi đèn, cả mấy chị em sợ quá đóng kín cửa sổ mặc dù trời nắng nóng vô cùng.

Một năm sau, nghe lời khuyên người bạn cũ tôi đi thi lại, và có lẽ “họ” đã thay đổi chính sách hay sao đó, nên tôi đậu và học cho hết lớp 12. Thế nhưng có nhiều bạn học cũ đã không làm như tôi, và không bao giờ có cơ hội để học tiếp.

Trong nhà tôi, ngoại trừ hai anh đầu vào đại học trước 1975, thì sau đó không ai được vào đại học cả. Vậy mà tôi đã đi thi 5 lần! Năm nào tôi cũng đi thi. Vừa đi làm, vừa tự học. Ba tôi hay đùa, “Chắc kiếp trước con làm giám khảo khó tính với thí sinh, nên kiếp ni họ bắt con rớt hoài đó.”

Không được vào đại học, thì phải đi làm nghề lao động kiếm sống, đúng không? Nhiều khi tôi tự hỏi, “Phải chăng đó là điều Họ muốn?" Tôi đã từng dạy kèm trẻ tại nhà, làm thợ may, sau này có thời gian lái taxi.

Và cũng vì không được học lên cao, nên cuộc sống cũng khó ngóc đầu lên nỗi!

Hai anh đầu đi vượt biên qua tới Mỹ, và nhờ quan hệ ngoại giao giữa hai nước Mỹ và Việt nam thay đổi, gia đình tôi lần lượt đều qua được Mỹ.

Ngoảnh qua ngoảnh lại, gần hết một đời người!

Giờ đây, Ba Mạ tôi đều đã qua đời, cho tới ngày mất, ông bà không mua lại được căn nhà nào khác cả.

Có lần ngồi gội đầu cho Mạ, tôi hỏi: “Mạ có nhớ nhà 83 ở Huế không?”

“Nhớ nhiều chơ. Ngôi nhà đầu tiên và cũng là cuối cùng ba mạ có. Dành dụm bao nhiêu năm trời, kỷ niệm với con cái…” Giọng trầm buồn bà nói.

Rồi có lần cắt tóc cho Ba, tôi cũng hỏi, “Ba có nhớ ngôi nhà 83 không?”

“Nhớ nhiều lắm. Ba một đời thanh bạch, liêm khiết, nhờ mạ giỏi giang chăm lo thu vén dành dụm tiền mua được nhà, mừng lắm. .” Ba tôi nói.

“Ba làm Phó tỉnh trưởng sau khi mua nhà 6 năm, ngôi nhà nớ ai làm công chức cũng mua được, vậy mà Họ lấy, vô lý thiệt!” Tôi hỏi.

“Đó là lý của kẻ mạnh con à.” Ba tôi đáp.

Ôi,  nỗi nhớ Tháng Tư không biết tới bao giờ mới nguôi.

Minh Nguyệt Graves

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 3,528,542
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ 2019 khi gần 90 tuổi. Bà tên thật là Nguyễn thị Ngọc Hạnh. Trước 1975, là giáo sư đệ nhị cấp tại Trung học Nguyễn Trãi. Cùng gia đình tới Mỹ từ 1979, hiện là cư dân hưu trí tại miền Đông. Bài viết thứ sáu của bà kể về mùa lễ Chiến Sĩ Trận Vong 2019 tại Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn.
Tác giả lần đầu tiết về nước Mỹ từ tháng 11, 2018, Bà tên thật là Nguyễn thị Minh Thuý sinh năm 1955. Qua Mỹ năm 1985, hiện là cư dân thành phố Hayward thuộc Bắc Cali và còn đi làm. Bài viết thứ 7 của bà được viết trong ngày lễ Phật Đản.
Tác giả là một cựu tù cải tạo vượt ngục và là người lái tầu vượt biển tới Philippine năm 1989. Định cư tại Mỹ từ 1990, ông hiện là cư dân Vail, Arizona, làm việc theo một hợp đồng dân sự với quân đội Mỹ, từng tình nguyện tới chiến trường Trung Đông và Châu Phi. Lần đầu góp bài dự Viết Về Nước Mỹ, ông đã liên tiếp nhận các Giải Biệt VVNM 2017; giải Danh Dự VVNM 2018. Sang năm 2019, ông góp thêm 7 bài viết mới. Hai bài tiêu biểu: "Đời Phi Công...Không Người Lái," và bài mới nhất, "Philippinnes, Ngày Trở Lại": người thuyền nhân trại Pallawan 30 năm trước, nay là một công dân Mỹ trở lại giúp mảnh đất ơn nghĩa năm xưa chống khủng bố.
Chào mừng tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ. Bà cho biết là nhà giáo về hưu, sống tại Canada từ năm 1981. Mong bà tiếp tục viết.
Định cư tại Mỹ từ 1994, Phương Hoa vừa làm nail vừa học. Năm 2012, bà tốt nghiệp ngành dạy trẻ tại Chapman University khi đã 62 tuổi và trở thành bà giáo tại Marrysville, thành phố cổ vùng Bắc Calif. Với loạt bài về Vietnam Museum, "Bảo Tàng Cho Những Người Lính Bị Bỏ Quên," tác giả đã nhận giải chung kết 2014. và vẫn tiếp tục gắn bó với Viết Về Nước Mỹ. Bai mới đăng 2 kỳ. Tiếp theo và hết. (Ấn bản chủ nhật có sự sai sót. Xin đăng lại phần đúng và trân trọng cáo lỗi.)
Tác giả là nhà báo quen biết trong nhóm chủ biên một số tuần báo, tạp chí tại Dallas. Ông dự Viết Về Nước Mỹ từ 2006, đã nhận Giải Danh Dự, thêm Giải Á Khôi, Vinh Danh Tác Giả VVNM 2016, và chính thức nhận giải Chung Kết Tác Giả Tác Phẩm 2018. Sau đây thêm một bài viết mới.
Định cư tại Mỹ từ 1994, Phương Hoa vừa làm nail vừa học. Năm 2012, bà tốt nghiệp ngành dạy trẻ tại Chapman University khi đã 62 tuổi và trở thành bà giáo tại Marrysville, thành phố cổ vùng Bắc Calif. Với loạt bài về Vietnam Museum, "Bảo Tàng Cho Những Người Lính Bị Bỏ Quên," tác giả đã nhận giải chung kết 2014. và vẫn tiếp tục gắn bó với Viết Về Nước Mỹ. Sau đây, thêm một bài viết mới.
Tác giả tên thật Tô Văn Cấp, sinh năm 1941, khoá 19 Võ Bị. Mậu Thân 1968, ông là một Đại Đội Trưởng Thuỷ Quân Lục Chiến tại trận địa Phú Lâm, Chợ Lớn. Tháng Tư 1975, ở với đồng đội ven đô cho tới giờ phút cuối, sau đó là 10 năm tù công sản. Định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO1, dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu, với nhiều bài viết giá trị, ông đã nhận giải á khôi năm 2014. Tác phẩm đang trình làng: Nửa Đường. Kính mời tham dự buổi ra mắt trưa Chủ Nhật 2-6-19. Tác giả tên thật Tô Văn Cấp, sinh năm 1941, khoá 19 Võ Bị, 50 năm lính với Chiến Thương Bội Tinh. Mậu Thân 1968, ông là một Đại Đội Trưởng Thuỷ Quân Lục Chiến tại trận địa Phú Lâm, Chợ Lớn. Tháng Tư 1975, ở với đồng đội ven đô cho tới giờ phút cuối, sau đó là 10 năm tù công sản. Định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO1, dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu, với nhiều bài viết giá trị, ông đã nhận giải á khôi năm 2014. Tác phẩm đang trình làng: Nửa Đường. Kính mời tham dự buổi ra mắt trưa Chủ Nhật 2-6-19.
Tác giả là cư dân Minnesota, đã nhận giải vinh danh tác giả Viết Về Nước Mỹ 2008. Với những bài viết thuộc nhiều thể loại đề tài, cô là một tác giả rất được bạn đọc yêu mến. Bài viết mới của tấc giả đăng 2 kỳ. Tiếp theo và hết.
Tác giả là cư dân Minnesota, đã nhận giải vinh danh tác giả Viết Về Nước Mỹ 2008. Với những bài viết thuộc nhiều thể loại đề tài, cô là một tác giả rất được bạn đọc yêu mến. Sau đây là bài viết mới nhất của cô.