Hôm nay,  

Cặp Mắt Long Lanh của Cô “Thầy Bói”

02/06/201800:00:00(Xem: 14116)
Tác giả: Chu Tất Tiến

Bài số 5403-19-31244-v7060218

 
Tác giả là một nhà giáo, nhà báo, nhà hoạt động xã hội quen biết tại Little Saigon.  Tới Mỹ theo diện Hát Ô Một từ 1990. Suốt 28 năm qua, ông  không ngừng viết văn viết báo tiếng Việt, tiếng Anh. Trong năm qua, có tới 7 cuốn sách mới. Góp sức với Viết Về Nước Mỹ, ông đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ từ những năm đầu, và vẫn tiếp tục thêm bài mới.
 

***
 

Đang chuẩn bị soạn chương trình cho một “show” ca nhạc, chợt điện thoại rung lên. Tôi cầm máy lên và thấy tên của P, một ca sĩ trong chương trình của tôi. “Hế Lô!, cô em! Có chiện chi dzậy?”, tôi đùa. Giọng P trầm hẳn:

-Anh biết gì không? M chết rồi!

Tôi hoang mang:

-Em nói sao? Cái gì chết? Ai chết?

-Thì M đó! M, cô con thầy bói H là người mà anh đi tìm hoài đó!

Không tin những gì vừa nghe, tôi lắp bắp hỏi lại:

-Cái gì? M chết? Thật không?

Hình như T gắt lên, giọng cô đẫm nước mắt:

-Còn hỏi? M chết hôm qua rồi!

Tôi ngước nhìn lên trời, cánh tay tôi tự nhiên nhũn ra. Chiếc điện thoại không giây, chợt như nặng hàng chục ký khiến không còn sức để giữ nó trong tay nữa và mặc cho nó rơi xuống đất cùng với tiếng gọi giật giọng của P: “Anh T...! Anh T...”

Như người bị tụt xuống hố sâu, tôi chợt thấy hoang mang, hụt hẫng, đầu óc tự nhiên trống rỗng... Tôi vẫn nhớ rõ khuôn mặt em, trái xoan, bầu bầu của người miền Nam, với đôi mắt linh hoạt, như hai hồ nước long lanh mà trong đó, khuôn mặt tôi chìm khuất đâu đó. Nụ cười của em, người con gái Nam Kỳ có hai lúm đồng tiền, mà mỗi khi cười thì đồng tiền lún sâu xuống, khiến gò má em căng lên, như hai trái táo thơm. Kỷ niệm từ đâu chợt về xôn xao, lồng lộng...

Năm 1968, tôi mới đi tu nghiệp ở Mỹ về, tương lai tràn trề, tươi sáng. Tôi như con chim ra ràng, thấy bầu trời cao là mê man, lúc nào cũng muốn cất cánh bay lên và không hề nghĩ rằng đời mình sẽ có lúc tàn mạt. Nghe nói có ông Thầy bói toán hay lắm, khách hàng đông nườm nượp, tôi rủ Q, một anh bạn lớn tuổi hơn tôi nhiều:

-Ê! Hôm nào đi coi bói chơi! Nghe nói ông Thầy kia nói trúng phong phóc. Đi thử xem lấy được cô vợ nào..

Q đồng ý ngay:

-Đi thì đi! Sợ gì?

Thế là hai thằng leo lên chiếc Vespa của Q phóng một lèo tới nhà Thầy. Dựng xe trước cửa, khóa lại, rồi hùng dũng tới bấm chuông. Chừng 30 giây sau, cánh cửa sẳt mở khẽ, một khuôn mặt trái xoan nhìn ra, thấy chúng tôi mặc quân phục sĩ quan, cô bé nhích môi cười và dang tay đẩy hết cánh cửa sắt rộng ra và lùi lại, nhường cho hai đứa tôi bước vào.

Vừa nhìn thấy cô bé có cặp má bầu bầu, chừng hơn 20 tuổi, tôi đã có cảm tình ngay, vì không hiểu sao, với tôi, các cô gái Nam Kỳ có điều chi hấp dẫn mà tả không nổi. Trong sự ngây thơ, hiền hậu của các cô, vẫn có thấp thoáng một bí hiểm chi đó, một quyến rũ chi đó, cũng như những nàng công chúa Ba Tư trong chuyện 1001 đêm, chỉ có đôi mắt thăm thẳm thôi mà tráng sĩ nào cũng như tê liệt. Cô bé con ông thầy này cũng có đôi mắt hấp dẫn lạ thường, nhất là nụ cười duyên, mỗi lần nhích mép là hai trái táo cấm của chuyện Bạch Tuyết lại đong đưa, mời gọi. Chiếc áo bà ba trắng miền Nam, chiếc áo làm cho ngay cả những kẻ hung dữ cũng phải chùng chân, như bừng sáng lên trên một thân thể tròn lẳn, gợi cảm vô cùng.

Cố trấn tĩnh chút tình cảm xao động vừa chợt đến, tôi cười, ghẹo em liền:

-Em tên chi?

Cô bé không vừa, đáp ngay:

-Dạ, em tên Chi. Mà anh hỏi làm chi dzậy?

Tôi tấn công em liền:

-Anh hỏi để làm quen, có được không? Mà có đúng em tên Chi không?

Hai trái táo hình như hồng thêm:

-Em cũng hổng biết tên em là chi nữa? Sao anh hỏi kỹ dzậy? Có chiện chi muốn nói đây?

Tôi bắt đầu lúng búng:

-À... à.. anh muốn... muốn.. coi bói! Mà Ba có nhà không em?

Tôi tỉnh bơ gọi ông Thầy bằng Ba để chọc em. Thật nhanh, không một chút ngần ngừ, người đẹp đáp liền:

-Ba thì hổng có nhà, chỉ có em thôi. Ba đi công chiện rồi. Anh muốn coi bói hả? Em coi cho! Em nói thiệt. Tên em là M. Em coi bói hổng thua ba đâu. Mà.. trước khi coi, anh.. tên chi?

Không thể dấu, tôi xưng tên và quay qua chỉ anh bạn: “đây là anh Q.”

Thấy cặp mắt nhìn về mình, annh bạn tôi từ nãy yên lặng, giờ mới mở được lời, có chút lơi lả:

-Em coi...có ngon lành không?

Một trái táo nhích lên:

-Dà....dà.. cũng ngon lành lắm! Anh muốn thử, thì đưa tay đây. Em coi làm phước!

Chà, dữ a! Cô bé này cũng không phải thứ hiền đâu. Tôi cười và xòe tay ngay trước mặt em:

-Thì làm phước cho anh một chút đi. Nè! Tay đây! Em coi thử xem. Nói trúng, anh thưởng... một chầu cà phê đen, không đá, không đường!

-Xí! Tưởng gì? Thứ đó, em hổng ham. Em hổng phải là dân cà phê đen như các anh đâu.

Tôi cười hích hích:

-Thế... em muốn gì nào?

-Em nói rồi! Em chỉ coi làm phước thôi! Không muốn gì hết á!

Nói xong, em cầm tay tôi tên, nhìn chăm chú. Chợt, nét mặt em đăm chiêu hẳn lên, hai lông mày cau lại vào giữa. Hai trái táo thôi hồng vì cặp môi em cắn vào nhau. M hơi nghiêng mặt sang một bên, và nhìn xéo lên trời như muốn tìm một câu trả lời. Yên lặng nặng nề. Hai đứa tôi, vốn quậy phá như điên, cũng chợt im lặng, căng thẳng.

Chừng 1,2 phút sau, M mới thở dài, ngước cặp mắt long lanh nhìn tôi:

-Em nói thiệt nhe. Tay anh xấu lắm. Bổn mạng anh xấu lắm!

Tôi hơi nhích môi cười gượng. Mình đang ngon lành như thế này, tương lai cứ đi lên vèo vèo, sao em lại nói xấu lắm? Em này “man-cô-đơn” rồi! (Hồi đó, tiếng lóng “Man” là từ tiếng Pháp ra, nghĩa là “tửng tửng”). M nhìn thẳng vào tôi:

-Tin em đi. Số mệnh anh bây giờ thì đang khá, nhưng chỉ vài năm nữa, thì đời anh tàn!

Tôi cười, có chút kiêu căng:

-Sao? Đời anh làm sao mà tàn được?

M lắc đầu, buồn bã:


-Thiệt đó mà! Em hông nói dỡn đâu. Em thấy.. em thấy.. chỉ vài năm nữa, là anh thân tàn, ma dại. Mất hết tương lai, sự nghiệp. Xa vợ, xa con. Gặp nạn lớn, có thể chết vài lần. Nghĩa là.. không biết có thoát không? Điều này thì em không chắc... Nghĩa là.. nghĩa là.. xấu lắm! Em chưa thấy ai có số xấu bằng anh.

Tôi kêu lên, giả giọng Huế: “Trời! Chi mà tệ rựa!”

Anh bạn tôi vội chìa tay ra:

-Em coi giùm anh xem có xấu như bạn anh không?

Cô bé ngập ngừng, rồi cũng cầm lấy tay bạn tôi, chăm chú một lúc rồi lắc đầu:

-Không! Số anh tốt! Anh không bị chi cả. Đời anh thong thả, bình thường.

Tôi cố nhịn cười. Cô bé này... thiệt... quái đản! Chưa thấy ông thầy bói nào mà dám nói xấu như thế:

-Vậy.. thì.. em xem có cách nào cứu anh không?

-Hừm! Để em ráng ...

Cô bé bảo tôi đưa cả hai tay, nghiêng qua nghiêng lại, có lúc cúi xuống gần sát, cắn môi, suy nghĩ. Rồi đột nhiên lại lật bàn tay phải của mình lên, nhìn ngó chăm bẳm. Một thoáng yên lặng nặng nề. Rồi cô ngước lên, nhìn thẳng vào tôi, nói dõng dạc:

-Có cách cứu được anh!

Tôi cười giỡn:

-Thiệt hông?

Em nghiêm nét mặt, trông như Ma Sơ:

-Không giỡn à nhe! Em nói thật, chỉ có môt cách cứu được anh thoát nạn đó. Có muốn nghe không? Nghe thì không được cười. Chịu không? Chịu thì em mới nói.

Vội gật đầu, tôi làm bộ suy tư. Cô gái nói chậm rãi:

-Có cách.. có cách.. giải nạn.. bằng cách.. cách.. anh ... phải cưới em!

Tôi muốn nhẩy lên, cười rũ, nhưng thấy nét mặt em trang nghiêm quá, lại không dám, mà làm bộ tin tưởng:

-Thật chứ? Anh phải lấy em thì mới thoát nạn hả?

Cô bé gật đầu, rồi cúi xuống, mắc cở làm hai trái táo hồng lên.

Không biết nói sao, tôi im lặng một lúc cùng với anh bạn. Hai thằng nhìn nhau, cười gượng. Tôi buột miệng:

-Em xinh quá! Lấy em là có phước cho anh lắm rồi. Nhưng anh phải.. anh phải.. phải...về hỏi mẹ anh đã nhé.. rồi anh trở lại... Cám ơn em.

Sau đó, tôi vội vã chào em, và hứa trở lại. Cô bé bây giờ trông nghiêm nghị lạ lùng, đôi mắt thăm thẳm nhìn tôi, không nói một lời.

Hai đứa tôi đi như chạy ra xe, leo lên Vespa rồi đạp máy, chạy vù đi, để lại sau lưng tiếng cửa sắt khép lại nghe “Ké...et...ét...ét...”

Đợi một lúc cho gió thổi bay đi cái không khí nặng nề vừa qua, chợt hai thằng phá lên cười như điên. Đời thiệt kỳ lạ. Ai dè cô thầy bói lại nói người xem phải lấy mình thì mới thoát nạn chết.. ha ha .. ha....

Những tưởng chuyện vui rồi qua đi, nhưng không ngờ hình bóng của cô bé mũm mĩm với hai trái táo duyên và cặp mắt trong xanh như hồ Lệ Thủy, lại bám vào hồn tôi, không rời. Cả ngày tôi cứ bị ám ảnh bởi hình dáng và giọng nói miền Nam “ngọt như đường cát, mát như đường phèn” của M.

Một tuần sau, chịu không nổi, tôi phóng xe lại gặp em. Lần này, đột nhiên không khí như trầm lắng, hai đứa ngồi nhìn nhau, bối rối. Vốn là môt tay quậy, không chuyện gì bậy bạ mà không dám làm, thế mà ngồi trước M, tôi như tên nhà quê, ngớ ngẩn, chẳng biết nói gì. Còn em, thì chắc mắc cỡ với kết luận của mình nên cũng lúng túng, hai tay cứ xoắn qua, vặn lại.

Cứ thế mà một vài lần tới gặp em, tôi vẫn không thể nào dám mở miệng, rủ em đi ăn chè, ăn bánh cuốn.. như tôi vẫn làm với những em khác... Những lời giỡn đùa của tôi biến đâu mất. Tôi như bị cụt lưỡi luôn.. Vì thế, mà tôi không đến em nữa, và em cũng chẳng bao giờ gọi điện thoại cho tôi, dù tôi đã đưa cho em... Cuộc đời chầm chậm trôi qua.. đến năm 1975!

Biến cố kinh hoàng của miền Nam làm tôi cũng như cả triệu người phục vụ cho Miền Nam bị xoáy vào cơn lốc chính trị, quân sự tít mù, khiến tôi quên mất hình bóng em, quên hết, quên thật sự, coi như một lần vui chơi, đùa giỡn, nhưng sau đó nhiều năm, nghĩ lại, thấy em quả là một thiên tài bói toán: em đã nhìn thấy trước cuộc thảm bại chính trị của miền Nam, đã nhìn thấy tôi chui vào cổng trại tù, thấy tôi xa vợ, xa con, bị đầy đọa, mất hết thân phận, và nhiều lần tưởng chết. Còn bạn tôi, thì anh vọt lẹ từ đầu tháng 5, sang Mỹ làm việc thong dong, cho đến ngày về hưu. Và em, em cũng ra đi trước cuối tháng 4. Giả sử, giả sử cho vui thôi nhé, nếu theo số phận an bài, nếu tôi lấy em, và dọt theo em cuối tháng 4 năm ấy, thì tôi đã không đi tù...

Năm tháng qua đi như “bóng câu qua cửa sổ”. Tôi qua Mỹ theo diện H.O.1. Vốn tính đam mê làm việc, tôi lao vào các công việc cộng đồng, tổ chức văn nghệ H.O, rồi Tù Ca, rồi các chương trình văn nghệ gây quỹ giúp bão lụt, xây tượng đài chiến sĩ Việt Mỹ..

Từ quan hệ với các ca sĩ, tôi tình cờ biết rằng M chính là chị của một ca sĩ nổi tiếng ở miền Nam California. Một hôm, tôi gọi chàng ca sĩ này và kể chuyện xưa cho chàng nghe. Chàng buồn bã:

-Chị em bây giờ tu rồi! Chị vẫn không lấy chồng! Trước 75, chị vẫn ở vậy, mọi người giục chị đi lấy chồng, chị chỉ cười, không nói gì. Bây giờ, em mới biết là chị.. chờ anh!

Tôi ngần ngại:

-Em... cho anh gặp chị em được không?

-Thôi, anh, lỡ rồi! Chị em đã tu rồi, gặp nhau làm chi nữa...

“Số mệnh đã an bài” là câu nói ở cửa miệng của nhân vật nữ trong trường thiên phóng sự của nhà văn Nguyễn Đình Thiều. Bây giờ, nghĩ lại, thấy thật đúng. Không ai tránh khỏi số phận mà Trời đã định. Với những người theo đạo Thiên Chúa, thì đúng là “ý Chúa định!”

Và rồi, tuy cái cell phone đã rơi khỏi tay tôi, nhưng tiếng gắt và giọng nói đẫm nước mắt của cô ca sĩ vẫn lùng bùng trong tai.

-Còn hỏi? M chết hôm qua rồi!

Hỏi gì nữa và hỏi ai bây giiờ. Ô hay, cái mặt nhìn trời của tôi sao không thể nhúc nhích?

Qua cửa sổ là buổi trưa nắng nhạt. Trời cao không mây, nhưng hình như có đôi mắt long lanh, thăm thẳm...

Chu Tất Tiến

Next Home First Choice Realty.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 3,690,862
Tác giả cùng hai con gái tới Mỹ ngày 27 tháng Bảy năm 2001 theo diện đoàn tụ. Mười sáu năm sau, bà hiện có tiệm Nails ở Texas và kết hôn với một người Mỹ. Với sức viết giản dị mà mạnh mẽ, tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ năm 2017. Bài viết mới của bà là chuyện tấm hình một cô bé học trò 15 tuổi. Tấm hình từng qua tay kẻ trộm, trở thành bùa hộ mạng của một thuyền nhân, với những tình tiết éo le dài gần một đời người lưu lạc.
Tác giả từng nhận giải Viết Về Nước Mỹ 2015. Ông là cựu sĩ quan VNCH, giảng viên trường Sinh ngữ quân đội, cựu tù cải tạo. Ông cũng là tác giả sách "Hành Trình về Phương Đông" do "Xây Dựng" xuất bản năm 2010. Mới nhất, là cuốn "Within & Beyond" do tác giả viết bằng Anh ngữ và tự xuất bản. Sau đây, thêm một bài viết mới.
Tác giả từng sống ở trại tỵ nạn PFAC Phi Luật Tân gần mười một năm. Ông tên thật Trần Phương Ngôn, hiện hành nghề Nail tại South Carolina và cũng đang theo học ở trường Trident Technical College. Với bài "Niềm Đau Ơi Ngủ Yên" viết về trại tị nạn Palawan-Philippines, Triều Phong đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Mai Hồng Thu là tên Việt của tác giả Donna Nguyễn/Donna Nguyen. Với ba bút danh này, cô đã từng góp nhiều bài Viết Về Nước Mỹ và đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2013
Bút hiệu của tác giả là tên thật. Bà cho biết sinh ra và lớn lên ở thành phố Sài Gòn, ra trường Gia Long năm 1973. Vượt biển cuối năm 1982 đến Pulau Bibong và định cư đầu năm 1983, hiện đã nghỉ hưu và hiện sinh sống ở Menifee, Nam California.
Tháng Năm tại Âu Mỹ là mùa hoa poppi (anh túc). Ngày thứ Hai của tuần lễ cuối tháng Năm -28-5-2018- là lễ Chiến Sỹ Trận Vong. Và Memorial Day còn được gọi là Poppy Day. Tác giả Sáu Steve Brown, một cựu binh Mỹ thời chiến tranh VN, người viết văn tiếng Việt từng nhận giải văn hóa Trùng Quang trước đây đã có bài về hoa poppy trong bài thơ “In Flanders Fields”. Nhân Memorial sắp tới, xin mời đọc thêm một bài viết khác về hoa poppy bởi Phan. Tác giả là nhà báo trong nhóm chủ biên một tuần báo tại Dallas, đã góp bài từ nhiều năm, từng nhận giải Vinh Danh Tác Giả Viết Về Nước Mỹ. Ông cũng là tác giả Viết Về Nước Mỹ đầu tiên có nhiều bài đạt số lượng người đọc trên dưới một triệu.
Với bài “Hành Trình Văn Hóa Việt tại UC Irvine”, tác giả đã nhận Giải Việt bút Trùng Quang 2016. Ông tốt nghiệp cử nhân về Ngôn Ngữ Học tiếng Tây-Ban-Nha tại UC Irvine. Sau 5 năm rời trường để theo học tại UCLA, tốt nghiệp với hai bằng cao học và tiến sĩ về ngành Ngôn Ngữ Học các thứ tiếng gốc La-Tinh, ông trở lại trường cũ và trở thành người đầu tiên giảng dạy chương trình tiếng Việt, văn hoá Việt tại UC Irvine từ năm 2000 cho tới nay. Sau khi nhận giải Việt Bút Trùng Quang 2016, tác giả vẫn tiếp tục góp thêm bài viết về nước Mỹ.
Tác giả 58 tuổi, hiện sống tại Việt Nam. Bài về Tết Mậu Thân của bà là lời kể theo ký ức của cô bé 8 tuổi, dùng nhiều tiếng địa phương. Bạn đọc thấy từ ngữ lạ, xin xem phần ghi chú bổ túc.
Tác giả hiện là cư dân Arkansas, đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2017. Bà tên thật Trịnh Thị Đông, sinh năm 1951, nguyên quán Bình Dương. Nghề nghiệp: Giáo viên anh ngữ cấp 2. Với bút hiệu Dong Trinh, bà dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7, 2016, và luôn cho thấy sức viết mạnh mẽ và cách viết đơn giản mà chân thành, xúc động. Sau đây, là bài mới viết về đứa con phải rời mẹ từ lúc sơ sinh năm 1975, hơn 40 năm sau khi đã thành người Mỹ ở New York vẫn khắc khoải về người mẹ bất hạnh.
Tác giả sinh trưởng ở Bến Tre, du học Mỹ năm 1973, trở thành một chuyên gia phát triển quốc tế của USAID, hiện đã về hưu và an cư tại Orange County. Ông tham gia VVNM năm 2015, đã nhận giải Danh Dự năm 2016 và giải á khôi “Vinh Danh Tác Phẩm” năm 2017. Bài mới của ông nhân Ngày Lễ Mẹ kể về người Mẹ thân yêu ở quê hương.