Hôm nay,  

Galang, Hòn Đảo Thần Tiên

05/07/201200:00:00(Xem: 134555)
viet-ve-nuoc-my_190x135Tác giả là cư dân Lacey, Washington State, tốt nghiệp MA, ngành giáo dục năm 2000, từng là nhà giáo trong ban giảng huấn tại trường dạy người da đỏ và giảng viên tại Đại học cộng đồng SPSCC, Olympia, WA. Ông là tác giả đã nhận giải thưởng danh dự Viết Về Nước Mỹ năm 2005. Bài viết mới của ông là một hồi ức dễ thương về đảo tị nạn Galang 2, với lời ghi “để nhớ hai người bạn đã đưa tôi đến Galang, Hải quân Trung uý Đạt và Hoa. 

* * *

Buổi sáng sớm hôm nay tôi lái xe ra sân vận động gần nhà để đi bộ hít thở không khí trong lành. Đi bộ tại đây, tôi thường hay bước qua cái mô đất cao để băng xuống con đường nhựa ở phía bên kia sân. Khi đi lên phía trên mô đất có cỏ cao hoa dại làm tôi trực nhớ tới ngọn đồi ở ngoài khu Kiểm Dịch trên đảo tỵ nạn Galang ngày nào.

Ngày ấy đã lâu lắm rồi, phải là cuối năm tám mươi tám thì phải. Khi tàu vượt biển mang số hiệu SG 169 của chúng tôi tấp được vào đảo Galang ở Indonesia. Trưa hôm sau cả tàu được chở vào trại tỵ nạn Galang 2 rồi đưa vào khu Kiểm Dịch chờ phân phối trại ở và làm danh sách lãnh thực phẩm. Khu Quarantine hay khu Kiểm dịch là nới đầu tiên ngươì tỵ nạn tới đảo phải vào để kiểm tra sức khoẻ và bệnh dịch. Đó là một khu rộng có sân trống ở chính giữa và có chừng sáu bảy dãy nhà trại, chung quanh có vách tôn bao bọc và một cổng duy nhất có cảnh sát trại kiểm soát sự ra vào. Lúc tôi ban đầu ở trong khu thì lại không thấy có cảnh sát dù cổng lúc nào cũng đóng.

Vào thời điểm này làn sóng vượt biển đang xuống đụng đáy nên khu trại barracks bị hoang phế cỏ mọc cao tới đầu người.

Một buổi sang tôi thức dậy sớm, không kềm được sự tò mò, tôi leo rào ra ngoài để lên ngọn đồi trước mặt. Trong không khí sớm mờ sương, tôi thấy mình lạc vào một nơi hoang dã đầy cỏ và hoa dại. Một lọai hoa có bông trắng nho nhỏ rất xinh mọc trắng cả đồi. Trong sương sớm mờ mờ của không khí lạnh thật là huyền ảo như cỏi thoát trần. Trong cái hứng khởi của một người vừa thoát khỏi được địa ngục trần gian, tôi hái một nắm bông nhỏ đó để đem vào trại làm quà tặng cho cô bạn gái cùng chuyến.

Sau đó chừng một tháng chúng tôi được thả cổng đi lại tự do trong khu Galang 2 và thưởng thức nhạc cũ trước 75, hút thuốc lá có mùi vị rất đặc biệt hiệu Garam của Indonesia trên một quán cà phê rất trữ tình vào ban đêm, Quán Cà Phê Trên Đồi. Những đêm trăng thanh gió mát mà ngồi uống cà phê trên đồi dưới ngọn đèn màu mộng ảo sau những năm trường gian lao trên con đường vượt biển thật không còn bút mực nào tả được nỗi hạnh phúc tuyệt trần này. Mọi khổ ải trong qúa khứ tưởng như tan biến hết.

Tại Galang, thường có ông cha tên Pát Mô và ông mục sư Zuni vào trong khu để uỷ lạo bà con trong thời kỳ còn bị hạn chế đi lại.Còn khi đã được xả ra thì tôi mới được biết là trên đảo có ngôi chùa rất to nằm trên đồi trông ra biển thật là nên thơ.

Thời đó đường lên chùa có cây cầu ván bắc qua rãnh sâu rồi bứơc lên những bậc thang lót ván tới cổng Tam Quan. Qua cổng, bước thêm nữa là lên tới chùa.Đứng từ dưới ở đầu cầu nhìn lên cổng Tam Quan và ngôi chùa đứng sừng sững uy nghiêm trên ngọn đồi thật không khác gì cảnh u tịch trong phim ảnh thời xưa. Những ngày rằm và nhứt là Ngày Tết, Phật tử đi viếng chùa đầy chật, khói hương nghi ngút.Con đường bậc thang dẫn lên chùa đông nghẹt thiện nam tín nữ trong quần aó mới đẹp lòng hân hoan đi lễ Phật trong bầu không khí của Tự Do.

Đứng từ chùa tôi nhìn ra biển ở xa xa lòng dâng lên cảm giác buì nguì khi nhớ lại bao người thân yêu của mình còn lại chốn hắc ám ở quê nhà. Xin cảm ơn những ai đó đã tới đảo này trước và bỏ công của dựng lên chùa và nhà thờ tôn nghiêm để kẻ đến sau được có nơi thờ phượng.

Rời chốn tôn nghiêm người trên đảo còn có nơi để hưởng đời sau những năm trường bị bầm dập vì xả nghĩa.Tôi muốn nói đến “đại lộ Tự Do – Catinat - Nhỏ” của Galang 2.

Đại lộ Tự Do Nhỏ [TDN] này hai bên có nhiều quán cà phê có TV, quán bán thức ăn, lò làm bánh mì, cửa hàng bán quần áo và vật liệu gia dụng vân vân được người bán lấy từ thành phố Pinang ở đảo kế bên về.

Kể từ khi tàu vượt biển của chúng tôi đến Galang thì bắt đầu từ năm 86 trở đi, Galang phải nói là sống lại với làn sóng vượt biển bùng dâng lên cao mãi cho đến đầu năm 92, lúc tôi rời đảo. Số người vựơt biển gia tăng chừng nào thì Đại lộ TDN này càng trở nên phồn thịnh bấy nhiêu.

Các hàng quán mở cửa bán từ sáng sớm cho đến lúc giới nghiêm lúc 11 giờ khuya. Mỗi tối cuối tuần tôi cùng bạn bè chiếm một chỗ ngồi trong quán cá phê có cái TV to nhất để xem phim Cô Gái Đồ Long rồi sau đó là bộ Thần Điêu Đại Hiệp, có phụ đề Anh ngữ, được tiếp vận có lẽ từ Singapore. Sau đó rủ nhau đi ăn cháo gỏi gà nấu ngon không kém gì ở vỉa hè Saìgòn ta khi xưa. Muốn uống bia? Có ngay Heineken. Muốn ăn chè? Thì có quán chè đủ loại, vân vân và nhiều nữa!

Lúc đó tôi là “con dì Phước” nên ngoài việc đi dạy thiện nguyện cho chùa và các hội đoàn, tôi kiềm sống bằng nghề dạy kèm Anh ngữ cho những người may mắn có thân nhân ở Mỹ, Canada… gởi đô la tiếp tế. Ngoài ra tôi có được cô bạn gái cùng chuyến mở cửa hàng bán quần áo nên cũng được hưởng lây những tiện ích trong cuộc sống hằng ngày.

Tuy hàng quán cất bằng cây rừng lợp tôn, phủ bạt nhưng ban đêm đèn điện sáng trưng, người đi lại tấp nập, nhạc mở lên làm tưng bừng cả một khu của Galang 2.

Nói đến những cái vui, cái phồn thịnh của Galang 2 mà không nói tới bải biển thì là một thiếu sót lớn.

Đêm xuống khi bờ biển vắng chỉ còn anh và em đùa sóng
Khi mặt trời đã lặn xuốn nữa chân trời
Màu đỏ ối nhuộm cành dương xanh đang xì xào trong gió
Nhìn lại chỉ còn hai ta và mây nước
Không biết là mình đang ở cỏi nao?

Bãi biển Galang 2 có bờ cát trắng bằng phẳng tuyệt đẹp trải dài với những cội dương già vi vu trong gió biển. Đối với tôi thì đây là một bãi biển đẹp nhất trần gian! Từ căn trại tôi ở đi bộ ra tới bãi biển khỏang hơn nửa tiếng đồng hồ. Con đường dẫn ra biển có vách đất đá đỏ hình thù kỳ dị với cây cỏ mọc đầy, hoang dã thiên nhiên. Con đường quanh co mà phong cảnh thay đổi từng lúc gây cho người đi đầy thích thú quên cả mệt nhọc trên đường. Khi gấn đến biển thì không gian thay đổi hẳn. Trong không khí có mùi mặn trong lành từ biển đưa vào làm mọi người thêm nôn nóng.

Khi tới biển thì trước mặt là biển xanh, bãi cát trắng tinh trải dài và có những cội dương già rải rác trên bờ xen với cây cối xanh tươi. Những buổi đi picnic ở biển như vậy là cả như một chuyến nghỉ hè đầy thích thú mà tôi có thuở xưa. Mọi người chia ra từng nhóm nho, tìm những nơi mình thích, trải vải nhựa bày thức ăn ra rồi thay quần áo túa ra để tắm biển.

Sau biết bao năm trời khốn khổ vì tù tội và lao đao với cuộc sống vô vọng sau 75, tôi thấy mình thực sự sống lại và trẻ lại với những chuyến đi biển này. Tôi không có may mắn để được biết tuyệt đẹp của bãi biển Nha Trang đến như thế nào nhưng đối với tôi, bãi biển Galang không kém gì Cote dAzur lừng danh thế giới.

Ngoài ra Galang còn có những chứng tích lịch sử như Miếu Ba Cô, nơi để tưởng bái ba người con gái bất hạnh tự tử vì cái nhục bị bọn hải tặc Thái cưỡng hiếp. Hay là khu nghĩa trang “Galang 3”, nơi an táng những ngươì xấu số đã qua đời trên đảo.

Một trong những hình ảnh kỳ thú tại Galang 2 là “Cửu Trùng Đài” được tạo nên với cây rừng trên đảo. Người dựng nên là anh Lộc, bạn cùng đơn vị của tôi. Với lòng ấp ủ từ lâu, khi đến đưọc Galang, anh và những người đồng đạo Cao Đài đã đốn cây rừng về dựng nên một cửu trùng đài để hành đạo. Công trình đầy ngoạn mục này chắc chắn là không thể nào đứng vững với thời gian nhưng trong tâm trí những ai ở đảo thời đó đều không bao giờ phai nhạt.

Rồi có những đêm sao thật sáng, trăng thật trong, bước dạo trên con đường cát trắng hay nằm trên thảm cỏ, nhìn lên bầu trời đen như nhung được rải đầy những hạt sao lóng lánh để biết là mình đang được hưởng cái quý giá của Tự Do, bõ công mạo hiểm vào tù ra khám, chạm mặt với Thủy Thần để rời bỏ chốn a tỳ địa ngục ở trần gian ở đằng sau.

Dĩ nhiên là cũng có những cái buồn và tiêu cực của Galang nhưng đối với tôi, Galang đến giờ và mãi mãi về sau, vẫn là Hòn Đảo Thần Tiên trong ký ức và trong đời mình./.

Trương Tấn Thành, WA

Ý kiến bạn đọc
23/09/201703:03:32
Khách
Tôi cũng là 1 trong những người dừng chân tại Galang 1 và 2 trong vòng 1 năm trời và cuối cùng là tại Chicago đã 34 năm rồi ... Thời gian qua thật nhanh , nhiều khi nghĩ lại như là 1 giấc mơ ... Tôi và gia đình tôi xin nhận nơi nầy thật sự là quê hương của đời mình : con trai tôi đã được sinh ra tại đây và tháng 3 năm tới 2018 cháu nội gái tôi sẽ chào đời : nước Mỹ muôn đời trong trái tim tôi .
11/07/201221:34:56
Khách
CHÀO ÔNG TRƯƠNG TẤN THÀNH, BÀI VIẾT KHÁ HAY, NHƯNG MONG ÔNG ĐƯỢC 1 LẦN TRỞ LẠI GALANG (HÒN ĐẢO THẦN TIÊN) BÂY GIỜ GALANG VẨN ĐẸP NHƯ XƯA, CHỈ KHÁC LÀ NGƯỜI XƯA NAY ĐÂU MẤT.

====================
Vui lòng không viết hoa toàn bộ.

VB Admin
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 93,258,739
Tác giả đã nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ 2012. Cô định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O. đầu thập niên 90, hiện là cư dân Berry Hill, Tennessee, làm việc trong Artist room của một công ty Mỹ. "Cha và Con" là chuyện về một "tổ ấm thời chiến" ở Hồng Hoa Thôn, Đà Lạt, nơi một cô bé lai Mỹ bị cả cha lẫn mẹ bỏ rơi, đang sống trong một buôn Thượng, trong khi người cha là một kỹ sư thành đạt, giầu có tại nước Mỹ. Bài trích từ báo xuân Việt Báo Tết Quý Tỵ 2013.
Với “Hồi Ức Tháng Tư Của Long Mỹ,” cùng viết với người cháu là Hải Quân Trung Tá Paul LongMy Choate, Trương Kim Hoàng Thư đã nhận giải Vinh Danh Viết Về Nước Mỹ 2011. Là một kỹ sư điện, cô hiện làm việc tại DPW-LACO. 
Trương Ngọc Anh (hình bên) đã nhận giải bán kết Viết Về Nước Mỹ 2002. Bài và hình ảnh được thực hiện theo lời kêu gọi của chương trình Foodbank tại Quận Cam: "Nếu biết ai đó cần sự giúp đỡ, xin vui lòng hướng dẫn vào chương trình trợ giúp của chúng tôi." Vào những ngày cuối năm, tác giả đã có dịp trở lại khu phát thực phẩm trợ cấp tại một nhà thờ, thấy rau quả tươi, thực phẩm phong phú,các thiện nguyện viên tiếp đãi ân cần.
Tác giả tên thật Linda Hoa Nguyễn, sinh năm 1950, đến Mỹ năm 1994 diện tị nạn chính trị theo chồng, hiện sống ở Bắc Cali. Thư kèm bài viết về nước Mỹ đầu tiên, bà cho biết "Tôi tốt nghiệp đại học ngành Early Childhood Education tại Chapman University California hồi tháng 5, 2012 khi tôi vừa tròn 62 tuổi.
Tác giả Lê Thị, người nhận giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2012 chính là Calvin Trần, nhà thiết kế thời trang gốc Việt nổi tiếng trong dòng chính.
Tác giả ba mươi tuổi, sinh năm 1982 tại Việt Nam, du học Australia từ 2007. Sau khi học xong từ đầu năm 2012, hiện sống tại Flemington, Victoria. "Một chị bạn từng sống một thời gian ở Mỹ khích lệ tôi viết văn trong lúc nhàn cư vi.
Chú Sáu Steve Brown chính là "người Mỹ yêu tiếng Việt" mà tác giả Donna Nguyễn đã kể trong bài "Việt Bút, Việt Báo và Chú Sáu." Báo xuân năm Thìn, khi nhắc tới tài làm thơ Việt của ông, Khôi An viết: "Tôi gọi ông là chú Sáu thay vì Mr. Steve Brown. Chú Sáu đã từng đóng quân ở Việt Nam, nơi đó chú đã gặp thím Sáu."
Tác giả sinh năm 1980, dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu 2000, đã nhận giải Chung Kết 2008 với bài “Chuyện Của Cây Vông”. Thụy Nhã (hình bên) hiện làm việc trong một bệnh viện tại Nam Cali. Sau đây là bài trích từ báo xuân Việt Báo Tết Quý Tỵ, hiện đã phát hành khắp nơi.
Tác giả dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu, 2000, nhận giải bán kết năm 2001, thêm giải Việt Bút 2010, và đã là thành viên Ban Tuyển Chọn Chung Kết. Sách đã xuất bản: Chuyện Miền Thôn Dã. Sau đây là bài viết mới nhất.
Tác giả là cư dân vùng Little Saigon, liên tục góp bài cho giải thưởng Việt Báo từ nhiều năm qua, đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2011. Bài gần đây nhất của Tịnh Tâm là “Cu Đất”, kể chuyện đi dự đám cưới cô bạn tên Nhã, tình cờ nhận ra chú rể tên Jonathan chính là đứa em nuôi ngày xưa tên Cu Đất, biệt tích từ nhiều năm, sau một chuyến vượt biển. Sau đây là hồi hai câu chuyện.
Nhạc sĩ Cung Tiến