Hôm nay,  

Hồi Ức Tháng Tư Của Long Mỹ

27/06/201200:00:00(Xem: 252124)
Tác giả: Paul LongMy Choate & Trương Kim Hoàng Thư
Bài số 3610-12-29010vb2062512

Tác giả hồi ký này, Hải Quân Trung Tá Paul LongMy Choate thuộc Hải Quân Hoa Kỳ, hiện là một cấp chỉ huy trên Hàng Không Mẫu Hạm nguyên tử lớn nhất của Hải Quân Hoa Kỳ USS CARL VINSON (CVN-70). Đây là con tầu đã tung ra các đợt tấn công đầu tiên trên không ở Afghanistan sau biến cố 9/11 và cũng chính nó là chiếc tàu đem thi hài Osama Bin Laden thủy táng trên biển. Tháng Tư 2012, cũng chính con tầu này đã tiến vào Thái Bình Dương, chính thức đánh dấu việc Hoa Kỳ chuyển trọng tâm chiến lược sang Á Châu.
Sinh tại Sàigòn năm 1967, bố Mỹ - mẹ Việt, Paul Long Mỹ Choate là đứa cháu ngoại của gia đình họ Trương, có các bà dì ruột là những tác giả Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu tiên, có người hiện là thành viên ban tuyển chọn chung kết như Trương Ngọc Bảo Xuân, và các tác giả từng nhận giải thưởng như Trương Ngọc Anh, Trương Kim Hoàng Thư... Rời Việt Nam khi mới 3 tuổi rưỡi, hồi ký của Long Mỹ được viết bằng Anh ngữ và Dì Tám của Paul là Trương Kim Hoàng Thư -tác giả từng nhận giải thưởng danh dự Viết Về Nước Mỹ 2002- giúp dịch sang Việt ngữ và viết thêm phần hồi ức gia đình.

***
*Tháng Tư, 2012

Sau 26 năm trong quân chủng Hải Quân, tôi vẫn cảm thấy mình còn trẻ và hăng say. Tôi sẽ đảm nhiệm chức vụ mới trong 30 tháng, trên Hàng Không Mẫu Hạm USS Carl Vinson (CVN-70) hiện đang rẽ sóng trong vùng biển Úc Đại Lợi.
Từ San Diego lấy chuyến bay đêm tới Perth bên Úc, tôi chuyển sang máy bay vận chuyển nhỏ mang tên C2 COD. Cùng đi trên chuyến bay có ông Đại sứ Úc. Mặc dù chiếc C2 COD thuộc loại nhỏ nhưng nó là loại máy bay cực mạnh để chuyên chở dụng cụ, máy móc và những người lính từ bờ lên hàng không mẫu hạm ngoài khơi.
Lơ lửng trên máy bay, tôi nhìn xuống. Ngoài đại dương, chiếc tàu khổng lồ trông rất nhỏ, nhỏ như hải âu xếp cánh chơ vơ theo khúc gổ trôi trên biển xanh. Khi sà xuống, bắt được dây hãm, một cú giật thật mạnh tưởng chừng vừa đâm thẳng vào bức tường, âm thanh điếc tai, phát sợ, máy bay ngừng cấp tốc. Đây là một trong cách tất cả các máy bay đáp trên tàu. Giống như một tai nạn được điều khiển lúc hạ cánh (controlled crash landing).
Khi máy bay dừng lại, có hai hàng thủy thủ, mỗi bên 4 người với đồng phục đội ngủ chỉnh tề, chào đón chúng tôi.
Thật sự tôi chưa bao giờ ngờ có cảnh đón tiếp trên tàu chiến, nhưng trong trường hợp này, chiếc tàu đã thật sự dừng lại trong khoảnh khắc. Và rồi, tôi cũng có thì giờ nhìn xa ra đại dương, sóng lặng gió êm, rất xanh rất đẹp, mùi biển mặn, hơi gió thổi lên mặt, khoan khoái.
Nhiều lần ra khơi, tôi nhớ rằng bình tro cốt của ông ngoại tôi đã chìm đâu đó trên biển cả trong một cơn bão cùng với mấy chục người họ hàng bên mẹ, chung một chiếc ghe khi vượt biên từ Việt Nam vào năm 1979. Không cần biết là trong lòng đại dương nào, tôi nghĩ, hễ có biển là có ông ngoại tôi.
Ông tôi như một thiên thần hộ mệnh luôn luôn bên cạnh bảo bọc và giúp tôi thoát khỏi hiểm nguy đã nhiều lần. Tôi tin như vậy.
Tháng Tư, nhìn biển nhớ ông ngoại, cũng là lúc tôi thấy lại chính mình từ buổi đầu thơ ấu.


*Saigon 1967-1970
Tôi sanh năm 1967 tại Sài Gòn, nhà thương Đức Chính. Ba tôi người Mỹ, tên Robert Choate và mẹ người Việt, tên Thị Lài. Lúc còn bé mẹ thường đội nón cho tôi để che khuôn mặt lai của tôi lại.
Mẹ tôi thường kể, tháng Năm, năm 1968, khi Cộng sản Bắc Việt tổng công kích Sài Gòn lần thứ nhì, từ cư xá Phú Lâm A, gia đình mẹ tôi theo người ta tản cư ra đường Lục Tỉnh để ẩn náu trong ngôi nhà thờ. Chúng tôi tin rằng chùa và nhà thờ là hai nơi an toàn nhất để lánh nạn, nơi mà sẽ không bị bom hoặc bị tấn công bởi hai bên trong một cuộc chiến tranh.
Ngày chúng tôi tản cư ấy cũng là ngày Ông ngoại tôi bị Việt cộng bắn chết. Dì Ba và dì Tư đã khiêng xác ông về nhà.
Mẹ tôi thường nhắc -Ông ngoại rất yêu thương tôi. Mỗi ngày sau khi đi làm về đến nhà ông thường một tay bồng tôi một tay cầm lái, chở tôi đi một vòng khu cư xá trên xe Vespa của ông. Lúc đó ông ngoại đang làm việc trong Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia của chính phủ miền Nam và ông cũng là một nhiếp ảnh gia cho nên tôi có một số hình hồi còn bé.

* 1970: Thành phố Pineville, Louisiana
Cuối năm 1970 khi tôi lên 3 tuổi rưỡi, Ba Mẹ và em gái tôi, bé Kim Loan, rời khỏi Việt Nam (VN) qua Mỹ và đến cư trú ở khu phố nhỏ xíu ở phía nam gọi là Pineville thuộc tiểu bang Louisiana (LA). Tên phố này được xác định rõ ràng theo nghĩa đen bởi cả phố được che phủ bằng những tàng cây thông. Đây là nơi tôi đã gặp gia đình bên nội.
Ông nội tôi, Dr. Julian Choate, là một Nha sĩ và bà nội, giảng sư Addie Bea Choate, dạy môn Pháp Văn tại trường đại học Louisiana.
Gia đình chúng tôi sống rất chật vật trong ngôi nhà nhỏ bên cạnh nhà Ông Bà. Thời gian đó cựu chiến binh trở về từ VN như Ba tôi không được dân chúng ủng hộ. Tìm mãi không được việc làm, thất chí, Ba tôi bắt đầu nghiện ruợu và hút xách.
Đấy là thời gian rất khó khăn. Chúng tôi không có xe hơi, việc đơn giản nhứt như đi chợ mua đồ ăn thật vất vả, nhứt là vào mùa lạnh. Chợ cách nhà khoảng một dặm, Mẹ tôi ẵm bé Kim đi bộ, tôi nắm áo theo đuôi. Mẹ chỉ mua đủ đồ ăn vừa hai túi xách thôi vì còn phải bế bé Kim. Trong nhà cũng không có đồ đạc gì hết. Bà nội cho mẹ một số vải. Bà rất ngạc nhiên vì ngày hôm sau mẹ tôi đã may mấy bộ quần áo cho anh em tôi bằng những mảnh vải nầy. Cuối cùng, ba tôi trở lại gia nhập Hải Quân (HQ). Ba tôi đã ra khỏi HQ vào năm 1968 vì ông không muốn bỏ chúng tôi ở lại Việt Nam.
Sau Louisiana chúng tôi còn dời địa chỉ vài lần nữa.

*1986: Gia nhập Hải quân
Năm 1986, khi gặp lại dì Thư, tôi chỉ là một cậu bé mới lớn. Cuộc sống quá thiếu thốn, không có tiền, không có xe, không biết tương lai ra sao. Ba mẹ tôi đã ly dị vài năm trước đó và gia đình tôi ai cũng phải chịu rất nhiều đau khổ. Khi còn ở Louisiana tôi đang học tại một trường đại học cộng đồng ngành điện tử (electronics) và nhiều lúc tôi tự hỏi "mình phải làm gì để có cuộc sống tốt hơn hiện tại?" Sau cùng, tôi đã dẫn hai đứa em lên Los Angeles. Gặp lại đại gia đình bên ngoại, dì Thư thường chở tôi đi ăn phở hay vào tiệm dì đang làm việc, ăn thức ăn Ý và bàn về những cách có thể giúp ích cho tương lai, có học vấn khá và tìm việc làm tốt nuôi thân. Dì nói tôi có thể chuyển vào đại học cộng đồng, vừa học vừa làm giống như dì và tiết kiệm tiền để học cao hơn, còn như nếu tôi muốn vào Hải Quân giống như ba của tôi thì cũng tốt, nhưng vô HQ phải nhứt quyết tiếp tục việc học.
Sau cùng, tôi quyết định gia nhập HQ, vì vô đó tôi cũng sẽ tiếp tục học và có cơ hội tốt nếu muốn học cao hơn trong ngành điện tử.
Tháng 9 năm 1986, khi bắt đầu vô trại huấn luyện tại Great Lakes, tiểu bang Illinois, tôi không hề biết những hy sinh, chịu đựng và cực khổ như thế nào để đạt đến sự thành công.
Ban đầu, họ dạy tôi sửa chữa thiết bị điện tử, máy tính và máy bay phản lực HQ. Đó là công việc khó khăn, làm việc ban ngày vùi đầu học tập mỗi đêm.
Khi một người lính mới đầu quân, đang ở giữa thời gian huấn luyện, ai cũng phải trải qua một thời gian dọn dẹp, sơn sửa và làm tất cả những gì họ được lệnh phải làm. Thời gian đó thật cực nhọc từ tinh thần lẫn thể xác vì mới rời khỏi gia đình, xa bạn bè và chới với trong một khuôn khổ mới.

ongngoaipaula

Ông ngoại họ Trương bế cháu ngoại Long Mỹ năm 1968, đứng cạnh là cô áp Út. Chỉ ít tháng sau, ông bị cộng sản giết trong trận Tổng Công Kích Saigon đợt 2, năm Mậu Thân.

Dạo đó đã mùa đông với cái lạnh buốt da xé thịt. Ngay ngày đầu tiên chúng tôi bị cạo đầu láng cóng và thay bộ đồng phục lính màu xanh, ống quần rộng thùng thình gọi là bell bottom. Dì Thư tôi hỏi: "có phải lý do ống quần rộng để dễ tuột ra lúc rớt xuống nước?" Đúng. Thêm nữa, là để có thể làm thành cái phao khẩn cấp. Tiếp đó mỗi người được phát một túi đựng thật to với vài bộ quân phục và đồ dùng rồi sắp đều hàng tiến tới doanh trại giữa trận mưa lớn. Cái túi đã nặng, thấm nuớc mưa ướt đẫm càng nặng thêm lên. Nước mưa lạnh cóng và nước trên đường đã ngập cao cỡ 1 foot (khoảng 0.31m). Bởi vì cả đội mặc quân phục mới, lúc dầm mưa, thuốc nhuộm màu xanh từ bộ quân phục chảy ra và biến những con đường chúng tôi đi ngang thành màu xanh. Lúc chúng tôi tới nơi, mắt cá chân của mọi người bị thuốc nhuộm lan ra cũng trở thành màu xanh.
Bởi những ngày tháng quá gian khổ trong trại huấn luyện này mà tôi nhất quyết muốn trở thành một sĩ quan.

*1988: Patuxent River Maryland. Gặp gỡ Tracy
Sau khi kết thúc phần huấn luyện ở Pensacola, Florida, tôi được gởi tới đồn trú trong quân khu Hải Quân tại Patuxent River, Maryland.
Đây là một tiểu bang thật xinh đẹp. Vào mùa thu, rất nhiều màu sắc khác nhau của các loại cây. Có cây lá đỏ rực, có cây nửa vàng nửa xanh e ấp, vàng tươi rực rỡ, vàng cam lóng lánh, nâu thẫm dịu dàng cổ kính, và từ từ rơi rụng. Có phải, thường nhìn cảnh đẹp của thiên nhiên làm cho chàng trai mới lớn như tôi với một tinh thần minh mẫn trong một cơ thể tráng kiện, lòng tôi mơ màng vu vơ?
Tôi gặp cô ấy lần đầu tiên tại phòng tập thể dục vào tháng 6 năm 1988. Đúng ra cô đến để gặp một chàng trai khác, nhưng cô chưa hề biết mặt người ấy như thế nào, vì vậy khi thấy tôi, cô nhờ tôi đi vào phòng tập tạ nhìn mặt người đó và tả cho cô nghe. Không thấy ai trong phòng tập tạ, tôi trở ra. Vài ngày sau, trong lúc đi bộ ngang qua phòng tập thể dục tôi bị một quả banh đập vào người khi nó bị trúng vành rổ và văng hướng tôi, lúc quay lại, thấy cô ấy một lần nữa. Cô Tracy!
Chuyện tình của chúng tôi bắt đầu từ hôm đó, chỉ là sự tình cờ vậy mà chúng tôi đã sống cùng nhau đến bây giờ. Chúng tôi cưới nhau trong nhà thờ tại đồn trú HQ năm 1990 và đứa con trai đầu lòng tên Robert được sinh ra vào năm 1991.
Năm 1992, tôi cùng gia đình chuyển đến Căn Cứ Không Quân Tinker tại Oklahoma để học về "hệ thống điện tử hàng không" (avionics systems), sinh thêm hai đứa, con gái tên Elizabeth năm 1992 và đứa út tên David năm 1994.

Ba của Tracy trước đó cũng trong HQ và cô đã di chuyển chỗ ở nhiều lần lúc còn nhỏ. Cô sinh ra để làm con của HQ, rồi vợ của HQ, một người có tinh thần đủ mạnh và thích hợp để chịu đựng trong lúc gia đình xa cách.
Không có gì cô ấy không thể làm!

* Pensacola, Florida
Trong hai năm kế tiếp tôi được huấn luyện về hệ thống điện tử cao cấp (advanced electronics systems). Sau đó, tôi được tuyển chọn để thành một kỹ thuật viên phi hành (aircrew-man in-flight technician). Công việc của tôi là điều khiển và sửa chữa hệ thống thông tin điện tử hàng không (electronic comunication, navigation systems onboard) của máy bay HQ C-130 trong các phi vụ. Nhưng trước tiên, tôi phải trải qua 16 tuần bay và được huấn luyện cách thức mưu sinh tại vịnh Pensacola, Florida.
Đối với tôi, đấy là một thời kỳ huấn luyện đặc biệt nhưng cực kỳ khó khăn vì sức tôi bơi rất yếu. Trên máy bay HQ, một người lính có trách nhiệm về máy móc, bắt buộc phải có khả năng tự sống sót và tồn tại trong những trường hợp tai nạn khẩn cấp, đặc biệt là lúc rơi xuống biển.
Tại Pensacola, trong một chiếc tàu nhỏ họ đưa chúng tôi ra vịnh Pensacola và ném chúng tôi xuống.
Nước biển lạnh buốt óc, khi máy bay trực thăng đến và bốc chúng tôi lên thì hai bàn tay của tôi đã hoàn toàn tê cóng. Nó tê đến nỗi tôi không còn cảm giác để cởi sợi dây kéo của bộ quân phục. Họ muốn cho chúng tôi biết con người có thể chết một cách nhanh chóng như thế nào khi bị rơi xuống đại dương. Những cuộc huấn luyện lần ấy là, chúng tôi phải bơi 1 mile (1,609m) trong 45 phút. Tôi rớt kỳ thử nghiệm lần đầu, nhưng được phép thi lại lần thứ hai và tôi đã thông qua kỳ thi, bơi trong 44 phút. Cuộc huấn luyện thứ nhì là, chúng tôi đã phải nhảy xuống từ một tháp cao, sau đó bơi bên dưới mặt nước 50m và một lần nữa tôi lại rớt. Tôi có cảm tưởng như thể buồng phổi sắp nổ tung, nhưng họ nói rằng chúng tôi phải thoát khỏi dưới nước, và thi thêm một lần nữa, sau cùng tôi đã thông qua tất cả vào ngày cuối.
Lần huấn luyện helicopter dunker, tôi đã bị thương.
Dunker đại khái là một cái thùng mà họ cho 5 người ngồi trong đó đặt trong máy bay trực thăng lớn, sau đó thả xuống một hồ bơi và lật ngược lại. Đó là cách dạy chúng tôi làm thế nào để thoát khỏi máy bay khi rớt xuống biển. Trong lúc chui ra khỏi dunker, tôi đã bị bàn chân của ai đó đá ngay vô đầu bất tỉnh dưới nước, nhóm thợ lặn cứu thoát tôi. Phần thưởng, hay phạt cho điều này? Họ ra lệnh cho tôi chui vô dunker một lần nữa, nhưng lần này bịt mắt tôi lại vì họ nói rằng tôi phải tự tìm cách giải thoát khi tai nạn xảy ra vào ban đêm.
Nhiều người bị thương hoặc rớt trong những đợt thử nghiệm đều không được phép bay và nếu bị rớt có nghĩa là sẽ bị trả về nhà. Mặc dù bị chấn thương trong dunker, tôi giữ bí mật vì không muốn bị loại bỏ.


*1990: Phi Đội đầu tiên
Thời điểm này căn cứ tôi đóng tại Patuxent River, Maryland. VQ-4 là phi đội đầu tiên của tôi. Nhiệm vụ của phi đội là bay các phi vụ liên lạc thông tin liên tiếp 24 giờ một ngày. Hoa Kỳ cần khả năng thông tin với tàu ngầm Hải Quân, để ra lệnh cấp bách khi cần phóng hỏa tiễn nguyên tử (nuclear missiles) trong trường hợp chiến tranh xảy ra. Đó là một phi đội đặc biệt mà hầu như ít ai biết đến. Công việc của tôi là thiết bị máy truyền thông và sửa chữa bất cứ bộ phận nào bị hư hỏng trong chuyến bay. Hầu hết các phi vụ cho mỗi người thi hành liên tục 10 tiếng. Thông thường chúng tôi bay khoảng 200 giờ trong thời gian hai tuần hành quân.
Đấy là thời gian tôi bắt đầu chuyến du lịch vòng quanh thế giới bởi vì khi máy bay bay thì nó bắt buộc phải hạ cánh, và chúng tôi luôn luôn đáp xuống nhiều địa điểm khác nhau. Tôi lên xuống bờ biển phía đông, từ Maine tới Florida, Canada, Nova Scotia, Greenland, Iceland, England, Bermuda, Azores, và Rota Spain.

me-paul

Năm 2011, Hai dì cháu Paul và Hoàng Thư trước mẫu hạm CVN-70, ngày Paul được vinh thăng Hải Quân Trung Tá.
Trong vòng ba năm, tôi đã có hơn 2,000 giờ bay và cơ thể bắt đầu suy sụp. Tôi cũng đã bị thương ba lần trong lúc thi hành các nhiệm vụ. Tôi đã từng gãy một bàn tay và thính giác bắt đầu có trở ngại.
Một lần, suýt chết. Trong lúc sửa chữa bộ phận khuếch đại (power amplifier) trong chuyến bay, tôi bị một cú điện giựt mạnh, nhờ bạn tôi, anh hạ sĩ quan Scott McCullough nắm phía sau áo bay và kéo tôi ra khỏi luồng điện. Lúc đó chúng tôi đang bay trên biển Đại Tây Dương. Phải mất ba tiếng mới có thể hạ cánh khẩn cấp xuống Căn Cứ Không Quân Dover, xe cứu thương chờ sẵn và đưa tôi đến ngay bệnh viện. Điều duy nhất tôi nhớ là tỉnh dậy trong bệnh viện ngày hôm sau, và cảm thấy rất khỏe, mới biết rằng bằng cách nào đó, tôi thoát chết.


*1996 Trở thành Sĩ Quan
Sự khao khát để trở thành một sĩ quan HQ đã nung cháy trong lòng tôi khi mới bắt đầu vào trại huấn luyện năm 1986 và tôi đã theo đuổi nguyện vọng đó trong 10 năm.
Chuyện ấy không dễ dàng, tôi đã cố gắng năm kỳ thi mới tiến tới Hạ Sĩ Quan Hạng Hai (Second Class Petty Officer-E5), cố gắng bốn kỳ để tiến lên Hạng Nhất (First Class -E6), và cố gắng ba lần để trở thành một sĩ quan.
Năm 1994, HQ đã lựa chọn và gửi tôi vào Đại học Oklahoma theo chương trình tòng quân (enlisted commissioning). Hai năm sau, tôi tốt nghiệp bằng cử nhân và được chấp nhận là một sĩ quan.
Kể từ khi trở thành một sĩ quan tôi đã giúp được 8 người thành công với chuyên nghiệp của họ và chỉ dẫn họ trở thành những sĩ quan giỏi.



* Hậu Phương:
Hồi ức của "Dì 8 Thư"

Sau khi xảy ra biến cố 9/11 năm 2001, hàng trăm ngàn thanh niên nam, nữ rất dũng cảm đã phải chịu đựng nhiều cuộc chuyển quân dài trong khu vực chiến tranh tại Iraq và Afghanistan. Trong đám thanh niên đó có Paul, con trai trưởng của chị Hai. Mặc dầu là dì, nhưng tôi chỉ lớn hơn Paul có vài tuổi, nên cứ xem nó như đứa em trai.

* Tháng 10, 1974
Tôi vừa mới lên lớp sáu, nhỏ út lớp hai, theo gia đình chị Ba tôi, di dân từ Sài Gòn qua sống tạm tại nhà chị Hai, ở John Island, South Carolina.
Trên chuyến máy bay PanAm lúc chúng tôi đi, chỉ có le que vài người khách, ngoài ra đa số là những đứa bé còn bú sữa, nằm trong những thùng nho nhỏ có cùng kích thước y chang nhau. Cùng đi với đám con nít là mấy bà Sơ.
Tôi hỏi chị Ba:
-Sao toàn con nít không vậy?
Chị tôi giải thích:
-Đó là mấy đứa bé mồ côi trong cô nhi viện được nước Mỹ bảo lãnh.
Tuy tuổi còn nhỏ nhưng mất cha sớm, tôi sớm biết buồn. Nhìn mấy đứa bé trong thùng thấy tội nghiệp, vừa sanh ra đã bị chiến tranh cướp mất cả cha lẫn mẹ!
Từ khi chị Hai đem hai con theo chồng qua Mỹ sống -đã gần bốn năm- tôi nhớ mỗi lần nhận thơ và hình chị gởi về, cả nhà xúm lại coi hình, sao thấy chị Hai đẹp và sang quá xá, còn hai đứa cháu thì thiệt dễ thương. Chị Tư cứ luôn miệng xuýt xoa:
-Nếu tui mà gặp tụi nó là tui hun cho đã.
Chị Năm và chị Bảy nhắn:
-Qua Mỹ, Tám hun hai đứa dùm nha.
Xuống phi trường, không thấy hai đứa cháu, chỉ có chị Hai và anh rể ra đón.
Mới tới Mỹ, nhìn chung quanh thấy cái gì cũng đẹp cũng to lớn và lạ mắt. Hít thở không khí trong sạch, sao khác không khí ở VN. Thời tiết vào tháng Mười đã lạnh, con đường từ phi trường về nhà chị mất gần hai tiếng, hai bên xa lộ toàn màu xanh của rừng thông và cây cỏ, ngoài trời lấm tấm mưa. Cảm giác thật buồn, không biết tới chừng nào mới gặp lại má, mấy chị và anh còn ở VN, nhưng thay vào là những cảm giác lạ làm tạm quên sự xa cách.
Về nhà chị Hai khoảng 1 giờ trưa, không thấy hai đứa cháu, tôi hỏi:
-Ủa, Paul và bé Kim đâu vậy chế?
Chị trả lời:
-Hai đứa đi học, khoảng 3 giờ chiều xe trường mới chở tụi nó về.
Tôi leo lên giường hai tầng, nhỏ út nằm tầng dưới, ngủ một giấc gần 6 giờ chiều. Đang ngủ lơ mơ cứ thấy đứa nào leo lên leo xuống, thỉnh thoảng để mặt kề sát mặt tôi, nhưng không hiểu sao tôi không tài nào mở mắt ra được, văng vẳng nghe tiếng chị Hai la:
-Pauly, đừng phá, để yên mấy dì ngủ.
Có lúc nghe tiếng:
-Mở mắt! Mở mắt! Mở mắt!
Lúc thì nghe tiếng cười khúc khích của bé Kim chạy ra chạy vô. Nửa tỉnh nửa mơ, như bị lạc giữa đường không biết mình đang ở đâu. Mùi đồ ăn chị Hai nấu làm tôi tỉnh thức.
Ngồi dậy thấy hai đứa cháu đứng cạnh giường nhìn mình. Dì cháu nhìn nhau cười cười mắc cỡ.
Paul ốm và cao hơn lúc nó đi rất nhiều. Khuôn mặt nó không thay đổi với nước da hơi ngăm ngăm. Bé Kim lớn bộn, tóc đen dài dễ thương, da trắng bóc như búp bê Nhật. Hai đứa mặc bộ đồ lính bộ binh, món quà má tôi gởi theo, trên vai áo có gắn 3 mai vàng. Má tôi nói cho Pauly chức Đại Úy. Paul thích bộ đồ lính này lắm, đi học về là nó thay bộ đó, cuối tuần nó mặc cả ngày luôn đêm, đến bốc mùi. Chị Hai la, bắt nó cởi ra để giặt, vậy mà nó rươm rướm nước mắt lúc đưa cho chị. Nó canh vừa sấy xong là xỏ vô mặc tiếp. Bộ đồ lính này thay phiên chuyền xuống từng đứa cháu, tới giờ chỉ còn lại cái áo phai màu nhỏ xíu mà chị Ba còn giữ "làm của".
Mẹ Paul rất hiền cho nên ở nhà mấy em gọi chị là chế Hai Hiền. Mỗi lần chị em xúm lại nhà chị chơi, đám nhỏ hay bắt chị kể chuyện thời chị còn là nữ sinh Trưng Vương. Vì Ba Má tôi chỉ có một trai ở giữa và bầy con gái 7 đứa xung quanh nên chị tôi vừa là chị vừa là anh trong gia đình, làm những việc mà đứa con trai lớn trong nhà phải làm, chẳng hạn như sơn phết, đóng đinh, đóng vách, nối dây điện, và luôn cả lợp ngói. Tánh chị tuy hiền nhưng rất cộc và rất khó. Tôi nhớ hồi nhỏ mấy chị lớn và anh tôi rất sợ chị Hai, còn đám nhỏ cỡ tôi thì chị rất cưng cho nên đứa nào cũng thương và ít sợ chị.
Chị gặp anh Robert, ba của Paul cũng là một sự tình cờ tại nhà người em bà con.
Chị kể:
-Sau khi gặp chế, anh viết thơ về nhà, xin phép cha mẹ đựơc làm quen với chế. Bà của Paul trả lời thơ "Nếu con thương người con gái này và nhất quyết sẽ đùm bọc cổ suốt đời thì con hãy tiến tới."
Anh đem lá thơ vô nhà trước thăm Ba sau đưa lá thơ đó cho Ba tôi xem và xin phép Ba để được quen với chị.
Ba tôi nói "gia đình này đàng hoàng".
Chỉ trong vài tháng anh xin phép Ba để cưới chị.
Lúc chị tôi mang thai cháu Paul vài tháng thì anh rể phải trở về nuớc sáu tháng, chưa kịp làm hôn thú. Một hôm, chị tôi leo lên treo cái màn che bớt gió vì Phú Lâm lúc đó còn rất trống và gió dữ dội lắm. Có lẽ vì với cao nên chị bị đau bụng, ba tôi hối hả chở chị vô nhà thương, đó là nhà thương Đức Chính, còn má tôi thì đón xích lô đem đồ vô sau. Ba đưa chị vô nhà thương rồi phải đi làm. Buổi chiều Ba trở lại chị tôi đã sanh được bé trai. Ba tôi mừng quá trời vì Ba chỉ có một con trai, bây giờ cháu ngoại đầu lòng là cháu trai hổng mừng sao được! Ba ẳm cháu ngoại lên, đếm từng ngón tay, ngón chân, vuốt lên khuôn mặt đỏ hỏn, ba cười, nói:
-Cháu ba sau nầy số nó sẽ rất tốt.
Chị tôi nói:
-Ba Má đặt tên cho nó dùm con.
Lúc đó chắc thấy mặt nó nhăn nhíu như rồng con, nên Ba phì cười, nói tiếp:
-Vài tháng nữa da nó sẽ căng ra và đẹp nên ba đặt tên nó là Long Mỹ, một con rồng đẹp, Trương Long Mỹ.
Vậy là gia đình họ Trương có thêm một thành viên mới, thêm một con rồng vì anh tôi cũng tên Long. Khi ba Paul trở qua VN, làm giấy tờ khai sanh lại, Paul mang họ cha, trở thành Paul LongMy Choate.
Cả nhà thương nó quá trời, kể cả chị Ba tôi là người không thích con nít, vậy mà cứ vài ngày, lãnh lương ra là có rinh về một bộ đồ cho nó. Người trong nhà thương nó nhiều hơn ai hết chắc phải là ba tôi, lúc đó tôi cũng còn nhỏ nhưng tôi nhớ trước khi đi làm, ba tôi ẳm nó, sau khi đi làm về ba tôi lại ẳm nó một bên và nhỏ út bên kia.
Buổi sáng cuối tháng 5 năm Mậu Thân, cháu tôi được ông Ngoại bồng đúng 11 tháng thì ba tôi bị cộng quân giết chết.
Hình ảnh xót xa oan nghiệt về cái chết của Ba tôi, ghi khắc vào lòng như một vết thương đau đớn, đúng hơn như vết đứt đã được may vá lại nhưng mỗi lần đụng vào vẫn thấy đau.
Vết thương ấy không bao giờ lành như vết sẹo không bao giờ phai trong trí nhớ.
Chỉ một tháng sau khi chúng tôi qua Mỹ, Ba của Paul được lệnh chuyển đi, gia đình chị Hai dọn đi tiểu bang khác, tôi ở với gia đình chị Ba nên không gặp Paul.

* Và 12 năm sau
Thoắt một cái, 12 năm trôi qua. Tôi gặp lại cháu năm 1986 ở Westminster, California.
Paul cùng hai đứa em từ Louisiana (LA) ra đây để gặp chị tôi sau một thời gian phải sống ở nhà bà nội. Anh rể và chị tôi đã ly dị, ba Paul đang còn trong HQ, rày đây mai đó. Lúc ấy chị tôi đã tái hôn với anh rể bây giờ. Paul cho chị tôi hay là trước khi rời LA nó đã xin vô HQ, đã thi đậu và khám sức khoẻ, chỉ đợi FBI điều tra lý lịch xong là họ sẽ rước đi. Có lẽ chị tôi một tay lo săn sóc anh rể, một tay lo cho ba đứa con, thấy tương lai quá mịt mù nên chị nói với Paul:
-Nếu con muốn có cơ hội học hỏi, việc con vô HQ là đúng.
Mấy dì thương cháu, bàn ra:
-Sợ chiến tranh chạy qua Mỹ, bây giờ sao còn đút đầu vô lính? Thôi, mẹ không nuôi con nổi thì mấy dì nuôi cho đi học.
Chị Hai tôi nghĩ xa hơn: "Làm sao được vì gia đình nào cũng chân ướt chân ráo mới dọn về Cali." Sau 6 năm dài ở North Carolina, Má và mấy chị tôi lúc đó mở một hãng may quần áo dưới Los Angeles, thời gian nầy ai cũng làm việc rất cực nhọc và thiếu thốn.
Tôi mới chuyển qua đại học Cal Poly-Pomona và đang làm việc vào buổi tối cho một nhà hàng Ý ở Pasadena. Có mấy lần vào dịp cuối tuần Paul qua chơi, tôi chở nó vô ăn, Paul rất thích ăn đồ Ý, nhất là món chicken parmigiana, lúc thì veal marsala, và lúc nào cũng uống hai ly Coke. Ăn xong nó đi bộ về chỗ tôi ở, cách đó mấy con đường, coi tivi, chờ tôi đi làm về mang theo một phần togo, vừa ăn hai dì cháu nói chuyện chơi. Nhớ lại khoảng thời gian này là lúc Paul đang lưng chừng ở giữa đường không biết đi về hướng nào. Tôi dù thân với cháu nhưng không biết khuyên Paul như thế nào cho đúng vì chính bản thân tôi cũng không biết mình phải làm gì. Bởi vì ngành tôi muốn học từ nhỏ bỗng dưng bị cắt ngang, không cách nào tiếp tục theo được nữa, nên tôi nói với cháu:
-Nếu Paul muốn ở lại học với dì Tám thì cứ ở đây, hai dì cháu cùng đi học, đâu có gì phải lo. Còn như vô Hải Quân thì cũng đâu có sao, sĩ nông công thương binh, có cố gắng thì có thành công mà.
Ngày Paul lên đường, tôi không tiễn vì không thích màn tiễn đưa. Liên tiếp mấy năm trời Paul lăn lóc trong quân ngũ, tôi lăn lộn với lớp học và trường đời. Thời gian đó tôi chỉ biết tin tức Paul qua chị Hai hoặc má tôi. Chẳng có gì nhiều ngoài những nơi Paul đang đóng và sẽ tới.
Nhớ lại hồi còn ở VN, chiến tranh triền miên, gia đình tôi lúc đó sống trong cư xá Phú Lâm A, những người anh của mấy đứa bạn, chẳng hạn anh V. con trai bác Th. kế bên nhà, anh hiền và nhút nhát khỏi chỗ chê, đi học về là trốn trong nhà. Anh là bạn của anh tôi nên thỉnh thoảng thấy mấy anh tụ năm tụ ba ngồi nói chuyện trước cửa nhà, anh tôi nhỏ hơn, lúc đó cở 14 tuổi. Đến năm anh V. 18 tuổi, vô lính, ra trận đầu tiên không trở về. Còn anh M. nữa, con trai bác X. mỗi lần xe Jeep bắt lính rảo tuần vòng cư xá, mẹ anh bảo chạy qua nhà tôi núp bởi vì ai cũng biết nhà tôi toàn con gái, anh tôi chưa tới tuổi vô lính, với lại anh được miễn quân dịch, nên họ không bao giờ xét nhà tôi, mà nếu có lỡ xét họ cũng buồn thôi, một lũ con tên lót chỉ toàn có Kim hay Ngọc.
Mấy lần tôi gặp anh M. ngồi một góc trên gác nhà tôi, mặt mày xanh lè như lá chuối, tôi hay ghẹo, "lêu lêu anh chết nhát! Trốn quân dịch!" chắc lúc đó có lẽ vì sợ quá nên anh chả thèm nghe mấy lời độc ác mỉa mai của tôi. Sau này thấy không trốn được nữa, hay anh đã lớn, anh đầu quân. Tôi gặp anh về thăm nhà hai lần trong bộ quân phục, thấy anh như người lớn oai phong lắm, không còn la đám em nữa. Tôi không dám qua chơi với em anh lúc anh ở nhà vì sợ anh nhớ mấy câu ngu dại tôi nói mà ký đầu tôi!
Rồi cũng như anh V., anh M. ra trận vài lần cũng không bao giờ trở về.
Còn anh Tr. "tây lai" con Bác H. nữa. Đám con nít trong cư xá gọi anh là tây lai vì anh có nước da trắng hồng, mũi cao như tây. Anh Tr. đi trận Quảng Trị (1972 mùa hè lửa đỏ) về là thành danh anh hùng, bắn hạ mấy chiếc xe tăng, được đăng trang bìa đại ảnh báo Sóng Thần, hình ở trần, vai vác khẩu súng ống to, loại bắn xe tăng, trang trong là hình mấy cô nữ sinh choàng vòng hoa chiến thắng đẹp và oai phong lắm, nghe bác H. nói anh Tr. được về phép cả tháng, sau đó có về lần nữa đem cô vợ có bầu mấy tháng ở với bác H., rồi sau cùng, anh đi luôn, mất xác....
Tôi còn nhớ trước khi có vợ, thỉnh thoảng anh được về phép. Anh thường lái chiếc Honda lượn vòng quanh hai dãy nhà trong cư xá, kiếm chị Năm tôi chọc ghẹo. Có khi gặp chị Năm đi bộ chơi với chị Tư, anh lượn ngang mặt, dựng đứng chiếc xe lên trên 1 bánh, rồ ga nghe muốn bể lỗ tai.
Tội nghiệp anh, tuổi trẻ của anh chỉ có bấy nhiêu thôi.
Lúc tử trận, anh chỉ mới ngoài đôi mươi.
Số phận nhiều anh lớn trong cư xá Phú Lâm hồi gia đình tôi ở VN là vậy đó. Cũng nhờ có biết bao người lính như mấy anh tôi biết, chúng ta được sống bình yên một thời gian ở VN.
Trên thế giới, bao giờ mới hết chiến tranh, để mọi người sống hạnh phúc, có một giấc ngủ thật an lành bên những người mình yêu, thương, cho những người vợ nhìn thấy chồng khi mở mắt sau giấc ngủ say mê, cho những đứa con được nhìn thấy cha mỗi buổi sáng trước khi cắp sách đi học.
Paul là một đứa trẻ rất hiền lành ít nói và biết vâng lời, theo đời quân ngũ chắc không đến đổi nào.
Tôi cầu nguyện cho cháu tôi và tất cả những người chiến sĩ, xong công vụ, bình an trở về nhà bên người thân yêu, càng sớm càng tốt.
Và tôi cũng mong sẽ có một ngày nào đó, ngày gần đây, thế giới không còn chiến tranh nữa.

*Buổi sáng 9/11/2001:

Tôi có thói quen coi tin tức trước khi đi làm.
Sáng hôm đó bật TV thấy chiếu chiếc máy bay đâm thẳng vào tòa Twin Towers tại New York, chiếc khác đâm vào Ngũ Giác Đài, còn chiếc nữa đâm thẳng xuống cánh đồng …. đài nào cũng đồng loạt loan tin khủng bố đã tấn công nước Mỹ. Tôi cứ ngỡ đó là một đoạn phim thế giới tận thế. Kinh ngạc và hoàn hồn, tôi lái xe vô sở.

Bãi đậu xe vắng hơn mọi ngày, có lẽ nhiều người sợ nên nghỉ làm. Tôi vô thang máy lên nơi làm việc, thấy đồng nghiệp tụm ba tụm năm, chưa ai làm việc mà chỉ chú ý vô internet coi tin tức. Cũng những cảnh hãi hùng tôi đã thấy hồi sáng trên TV. Nhìn quanh không thấy ông sếp, tôi lại phòng ông định hỏi coi ông có nghe tin tức chưa vì ông vô sở rất sớm, ông đã nói trước, giọng trầm và thật buồn:
-Cô có biết là tôi đã có mặt trong buổi lễ khánh thành tòa Twin Towers năm 1973? đó là một building thật hùng vĩ tuyệt vời của nước Mỹ, vậy mà chỉ trong chốc lát bị tiêu tan bởi tụi khủng bố, mấy ngàn người ở trong đó, không thể tin được!
Tôi chào ông trở về bàn, cảm thấy hơi lo, nhấc điện thoại tôi gọi cho má hỏi thăm Paul. Má nói vừa nghe chị Hai báo tin Paul đang ngoài biển và sẽ qua Trung Đông. Lúc đó chỉ mới 8 giờ sáng, tôi nghe máy phóng thanh của nhóm an ninh trong sở báo mọi người hãy túc trực chờ tin tức. Tôi vén màn nhìn ra bầu trời trong xanh, nơi tôi ngồi là tầng 10, ngay đỉnh cột cờ, sáng nay lá cờ Hoa Kỳ vẫn bay phất phơ trong nắng ấm nhưng chỉ được kéo lên lưng chừng để báo tin nước Mỹ đang mang đại tang.
Bỗng nhiên, thấy rất nhiều xe cảnh sát, xe cứu thương, xe chữa lửa … đồng loạt bao quanh building sở, chuông báo động vang lên inh ỏi, nhóm an ninh loan báo trên máy phóng thanh "Vì lý do an ninh, tất cả nhân viên được phép về, xin liên lạc ngày mai để biết thêm tin tức, chúc mọi người bình an."
Tôi lái xe về nhà mở TV coi tin tức, trong lòng rất lo và nghĩ nhiều về cháu Paul.

*Tiền Tuyến.

9/11/2001, ngày kinh hoàng lịch sử ấy, chúng tôi đang trên Hàng Không Mẫu Hạm USS John C. Stennis để huấn luyện thực tập sinh viên sĩ quan hải quân không chiến.

Thông báo của Hải Quân Đại Tá Gallagher đánh thức chúng tôi bằng máy phóng thanh IMC rằng những kẻ khủng bố đã tấn công nước Mỹ.

Ông nói rằng tất cả nhiệm vụ của chúng tôi lúc đó phải chuyển qua công tác khác. Chúng tôi lập tức được bố trí sang Trung Đông để tham gia cuộc chiến. Ngay buổi chiều hôm đó, hải quân (HQ) đã cho 45 chiến đấu cơ hạ cánh trên chiến hạm. Từ đấy, Ông Đô Đốc và Ông Đại Tá cùng bay các phi vụ tuần tra trên bầu trời của Los Angeles. Chúng tôi ở ngoài khơi liên tiếp 3 tuần, sau đó được lệnh về nhà trong thời gian rất ngắn để lấy thêm vật dụng, nói lời tạm biệt với gia đình rồi chuyển tiếp đến North Arabian Sea.



Chiếc USS John C. Stennis CVN-74 là một Hàng Không Mẫu Hạm nguyên tử (Nuclear Aircraft Carrier) và được coi là Hàng Không Mẫu Hạm mạnh nhất từng được chế tạo. Nó dài tới 1,074 feet (327.355m), có thể di chuyển với tốc độ 35 kts (1 knot = 1.151 mph = 1.852 kph), sức chứa hơn 70 phi cơ, và gần 5,500 sĩ quan cùng thủy thủ.

Đây là tàu chiến đầu tiên của tôi. Chúng tôi lênh đênh trên biển cả 110 ngày dài.

Cuộc sống trong HQ không phải là một cuộc sống dễ dàng. Trên tàu chiến HQ thì không có gì là riêng của mình. Một người phải rất quyết tâm để có thể chấp nhận lối sống xa nhà nhiều ngày tháng liên tục trên tàu, dù có chật hẹp, gò bó, thiếu thốn, thức ăn hầu hết là đồ hộp, đông lạnh v.v..., vẫn giữ vững sức mạnh từ tinh thần đến thể xác để thi hành nhiệm vụ một cách hoàn hảo. Tuy nhiên, nhiều thủy thủ vẫn cần sự giúp đỡ, nhất là về phương diện tinh thần.

Là một sĩ quan, công việc của tôi là đặt thủy thủ vô một vị trí để họ thành công, để loại bỏ tất cả các rào cản, để đảm bảo cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người. Có tới 90% thủy thủ trên tàu chiến HQ được bố trí đến North Arabian Sea (Biển Bắc Á-Rập), tung ra các phi vụ ném bom tại Afghanistan và hầu hết số nầy dưới 21 tuổi và lần đầu tiên xa nhà. Chúng tôi huấn luyện những người trẻ mới trưởng thành và biến họ thành những thanh niên nam nữ dũng cảm.




*Năm 2006, tháng 11, Iraq.

Đang là người chỉ huy của Fleet Readiness Center Southwest (FRCSW), chuyên việc thử chất nổ, tôi được gởi tới Iraq để giúp binh chủng bộ binh. Đặc trách đến Tiểu Đoàn Đặc Nhiệm thuộc Đệ Nhất Sư Đoàn Calvary, Lục Quân Hoa Kỳ (Division Special Troops Battalion, 1st Calvary Division, U.S. Army), tôi chịu trách nhiệm bao gồm Căn Cứ 12 Forward Operating Bases (FOB).

Một kế hoạch chiến tranh mới có tên là “surge” cho phép các chiến sĩ rời khỏi căn cứ và sống hòa lẫn với người dân Iraq, nhưng kế hoạch này cực kỳ nguy hiểm bởi vì rất khó để có thể biết ai là kẻ địch. Hơn nữa, kế hoạch surge bị khựng lại vì những quả bom cài đặt bên đường, gọi là "thiết bị phát nổ tức thì (improvised explosive device- IED) được bọn khủng bố điều khiển bằng cell phone, làn sóng radio và remote control.

Trong vòng ba năm qua đã có hơn 100,000 vụ tấn công bằng IED và đó là lý do

tại sao Hải Quân được lệnh qua tiếp sức.

Nhiệm vụ của tôi là cài đặt một hệ thống chống lại những quả bom vệ đường ấy, gọi là hệ thống điện tử nhiễu âm đặc biệt (special jamming electronics systems) trong xe. Hệ thống này có khả năng làm ngẹt đường dây điện thoại di động, phá hủy, vô hiệu hóa băng tần thu của máy bấm điều khiển, ngăn chặn trước khi bom bùng nổ. Chúng tôi cũng huấn luyện các chiến sĩ cách sử dụng, sửa chữa và phá vở hệ thống IED.

Có rất nhiều trở ngại và những thiếu thốn phải đối phó trong thời gian gây dựng nguyên một trung tâm làm việc. Chúng tôi phải xây một cơ sở, đào đường hầm dài hai mile để chạy đường dây Internet, điện lực, điện thoại, phải cho hợp đồng cung cấp nước uống và nhà vệ sinh di động.

Tại Iraq, mỗi ngày có rất nhiều đoàn xe quân đội khác nhau (HMVV, Strikers, Bradleys, PLS, và những loại xe chuyên chở hạng nặng) vào khu của tôi để được giúp đỡ hay điều chỉnh sửa chữa. Tại căn cứ, dưới quyền tôi có một Sĩ Quan cao cấp trưởng và hơn 200 nhà thầu dân sự Hoa Kỳ tại khu này và nhiều nơi khác trong cả nước.

Căn cứ của tôi cài đặt hơn 12,000 hệ thống. Điều này cho phép nhiều chiến sĩ rời khỏi căn cứ an toàn để thực hiện nhiệm vụ của họ và điều quan trọng nhất là sự thành công của kế hoạch "surge". Điều đáng mừng, những vụ chiến xa quân dân sự bị nổ dọc đường đã giảm xuống rất nhiều, kể như, có rất nhiều mạng sống đã được cứu trong thời gian nhóm chúng tôi thực hiện công tác ấy.

Sự cần thiết và mục đích chính của chúng tôi là giúp đỡ chiến sĩ để thành công trong cuộc chiến này, đem về quê hương càng nhiều càng tốt, những quân nhân và dân sự.
Để việc làm được suông sẻ và không phí thì giờ vì mỗi chiếc xe lăn bánh trên đường, mỗi giây phút trôi qua là mạng sống của binh sĩ và dân sự bị đe dọa, tôi áp dụng phương pháp cải tiến, làm việc theo dây chuyền sản xuất cho nhanh. Tất cả các dụng cụ, máy móc, mọi thứ cần thiết trong mỗi nhiệm vụ, những gì không quan trọng trong công việc đã được cắt giảm tới mức tối đa. Lúc đó chúng tôi có một đội ngũ bảo trì và một đội ngũ cài đặt, tôi phối hợp cả hai thành một đội và huấn luyện tất cả binh sĩ hai đội thông thạo cả hai việc bảo trì và cài đặt.

Khi mới thành lập căn cứ, việc làm này tốn khoảng 2 tiếng 30 phút để cài đặt một hệ thống, khi thay đổi cách làm, chúng tôi đã giảm xuống chỉ cần 30 phút là xong.

Tôi không thích bay trên không phận Iraq! Chiếc trực thăng Blackhawk phải bay rất thấp, tầm cao khoảng 200 feet (cở 61m) ngang đỉnh cây, tôi nhìn xuống quan sát. Thành phố Baghdad lúc đó rất hoang tàn đổ nát, rác rưởi phủ đầy đường, rác bao trùm các tòa nhà đã bị phá hủy bởi chiến tranh. Người nghèo ở khắp mọi nơi, những ngôi nhà cũ mục, xây bằng đá và bùn với tuổi thọ chắc đã hơn ngàn năm. Trong thành phố, tôi thấy còn rất nhiều xe di chuyển trên đường, một đứa bé đang chơi trước sân trường, nhưng ở nơi khác, cả làng đang bốc cháy. Vào ban đêm nhiều nhà chỉ có ánh sáng lóe ra từ một ngọn lửa đốt ngoài sân vì cả thành phố không có điện. Các vùng nông thôn là những bãi đất hoang loang lổ đầy hố. Tuần trước đó, tôi đã bay đến nhiều căn cứ điều hành chuyển tiếp (Forward Operating Bases) để quan sát sinh hoạt của những trại quân khu. Tôi đã bay đến Rustamayah, Kalsu, Baghdad Green Zone, Falcon, Loyalty và Taji.

Những điều chúng tôi đã học được là kẻ thù khủng bố này rất nguy hiểm và thông minh. Đám khủng bố bị chúng tôi tiêu diệt chỉ là những đám lẻ tẻ ngu xuẩn, nhưng đám khủng bố thật sự thì liên tục thay đổi cách tiếp cận để tấn công chúng tôi. Khi bay qua trại Stryker gần sân bay Baghdad, vài lần chúng tôi bị tấn công bằng súng cối và súng trường đủ loại, nhưng tôi tương đối an toàn. Một số căn cứ khác bị tấn công hàng ngày. Tại căn cứ Loyalty thành phố Sadr, đã có một vụ nổ bom xe phía bên kia bức tường cách tôi chừng khoảng 60m và có rất nhiều chiến sĩ chạy sang ẩn núp bên trong tòa nhà của chúng tôi.

Sự căng thẳng của chiến trường đã đến mức không thể chịu đựng nổi. Mỗi đêm bị tấn công bằng súng cối. Mỗi ngày mỗi thêm người chết. Tại Baghdad có thể nói tôi đã không ngủ được trong 3 tháng. Lý do giúp tôi giữ vững vị trí chỉ huy của mình là, khi biết rằng càng nhiều bộ phận IED chúng tôi cài đặt, càng có nhiều chiến sĩ có thể được cứu, và càng nhiều kẻ khủng bố bị tiêu diệt.

Một lần địch tấn công, mặc dù đã hết sức cẩn thận tôi cũng đã ngã nhào và bị chấn thương trên đầu.

Vào mùa hè, có thế nói Iraq là một nơi nóng nhất trên thế giới, nhiệt kế có thể tăng hơn 120 độ, cộng thêm 40 pounds của bộ quân phục áo giáp. Bất cứ lúc nào đi ra ngoài, sức nóng có thể làm mình ngộp thở. Nhiều binh lính tự dưng ngã ra chết mà không hiểu nguyên do.

Điều mà chúng tôi cần cám ơn là bộ đồ trận ACU, thoải mái nhất từ trước đến giờ so với những bộ khác, thậm chí tốt hơn cả quân phục HQ thời tôi còn mặc quần jean ống rộng (bell bottom dungarees).

Thế rồi thời tiết thay đổi.

Trời lạnh và mưa thường xuyên, biến tất cả mọi thứ thành bùn - làm tôi nhớ tới những phim đen trắng về chiến tranh lạnh (cold wars). Bùn và Mưa!

Một ngày nọ, con đường trong phố bị cấm lưu thông và lúc đó có một đoàn ba xe buýt màu đen chạy ngang. Tôi nhìn mà không biết có Saddam Hussein trong đoàn xe buýt ấy cho đến khi tôi nghe tin tức đêm đó.

paul-bronzestar

Paul trên bìa báo Almanac khi nhận huân chương Ngôi Sao Đồng do chiến công tại Iraq.

* 2007 Giáng Sinh, Iraq.

Giáng sinh bên Iraq cũng không đến nỗi quá tệ. Chúng tôi đã có một bữa ăn tuyệt ngon tại hội trường, vì đó là món tôi rất thích, prime rib. Lúc ở trại FRC Baghdad, ngoài việc bảo trì chúng tôi lãnh luôn phận sự phân phát những gói quà từ các nhà hảo tâm khắp nơi trên Hoa Kỳ gửi sang chiến sĩ khoảng một tuần trước lễ Giáng sinh. Đây là những gói quà gọi là "care packages". Dạo đó chúng tôi nhận được 20 thùng cạc-tông, kích thước mổi thùng là 4 feet X 4 feet, chứa hàng trăm gói quà nhỏ, trong đó gồm có bánh ngọt của nhóm hướng đạo, xà-bông gội đầu, dao cạo râu, kem đánh răng, DVD, v v.....

Nhìn nét rạng rỡ trên khuôn mặt của những binh sĩ trẻ, thủy thủ, thủy quân lục chiến lúc họ nhận được gói quà này, tôi nghĩ rằng đó là sự khuyến khích rất hiệu quả cho họ khi hậu phương nghĩ tới tiền tuyến.

Sau khi hoàn thành công tác tại Irag, tôi được hồi hương. Một số binh sĩ đã không may mắn như vậy. Nhiều người đã thành tử sĩ như đã xảy ra trong mọi cuộc chiến.

Tôi nhớ hoài một nữ quân nhân canh gác cho khu ăn. Bị tấn công bằng súng cối, mặc dầu cô mặc áo giáp toàn thân đầy đủ nhưng một mảnh nhỏ của viên đạn trái phá (shrapnel) đã xuyên qua và đâm thẳng vào trái tim. Cô ngã xuống, hai tay vẫn ôm chặt khẩu súng, đôi mắt xanh trong vẫn mở trừng trừng. Lúc đó cô đang nghĩ gì? Có lẽ cô không biết mình đã chết. Gia đình cô hẳn đang trông đợi cô trở về! Và khi về nhà, cô nằm trong chiếc quan tài phủ màu cờ.

Cô mới 19 tuổi, bằng tuổi con tôi. Cô nằm xuống khi cả cuộc đời còn trước mặt.

Hai binh sĩ khác đã mất mạng trong một đoàn hộ tống. Một người sửa soạn rời khỏi căn cứ và người kia được phái tới để thay thế anh. Người lính cũ đang chỉ người lính mới nơi nào là lĩnh vực nguy hiểm, nơi nào cần tránh, đùng một cái, quả bom cài bên lề đường nổ tung, banh xác cả hai.

Chuyện khác, căn cứ Victory tại Baghdad, có những con kinh đào rất sâu, vào ban đêm một số đường không đèn và rất tối, có hai binh sĩ mới phái đến, không quen thuộc với căn cứ, lái chiếc Humvee, họ bị thất lạc trong đêm tối và khi quành đầu chiếc Humvee lại, nó bị lọt xuống con kinh, lật úp xuống nước, kẹt trong xe, cả hai đều chết đuối.

Tôi đề cập đến những người này vì chính họ và hàng ngàn người khác thực sự hy sinh mạng sống của mình để phục vụ cho đất nước của chúng ta. Những chiến sĩ ấy, với tôi, đó mới là những anh hùng thật sự!

Tại Iraq, khác biệt giữa sự sống và cái chết đôi khi chỉ là may mắn. Có hai nhà thầu làm việc cho tôi và tôi gửi họ sang Balad Iraq để thi hành một nhiệm vụ. Tôi đưa họ đến sân bay trực thăng nhỏ, gọi là sân bay cho oai nhưng đó chỉ là một cái lều thôi, để thả họ ở đó mà đón chuyến bay khác, nhưng không hiểu vì sao cuối cùng tôi quyết định ở lại chờ cho đến khi máy bay trực thăng đến. Chuyến bay tới trễ và anh linh gác bảo chúng tôi đi ăn trước. Khi chúng tôi trở lại, anh lính báo cho biết chúng tôi lỡ chuyến bay, và rồi tin tức cho hay chuyến bay lỡ ấy bị bắn rơi và thiệt mạng sáu người lính.

Hai anh nhà thầu sợ xanh mặt, cả hai vừa thoát chết.

Lần trở về từ Iraq, tôi cảm nhận thêm nhiều khó khăn hơn so với những cú sốc mà tôi trải qua lúc được gởi ra chiến trận. Một ngày tôi lo tránh bị đạn bắn hoặc bị bom nổ tung lên, qua ngày hôm sau, tôi trở lại California an bình. Dường như có rất nhiều người không hiểu rằng chúng tôi đang đương đầu với một cuộc chiến tranh tàn khốc thực sự tại Iraq và Afghanistan.

Có những lúc tôi là sĩ quan duy nhất từ đơn vị của mình phái qua Iraq, vì HQ chỉ gởi từng người sang Iraq và Afghanistan với một nhiệm vụ đặc biệt là để hỗ trợ nỗ lực tham chiến. Những kinh nghiệm gian khổ không được chia sẻ với các bạn đồng đội hoặc những thủy thủ từ đơn vị của riêng mình, thành ra tôi cảm thấy thật khó khăn và lạ lẫm để cố gắng giải thích về một cuộc chiến gian nan và tình hình khủng khiếp như thế nào.

Ai cũng nói rằng việc khó khăn nhất trong HQ chính là làm vợ của lính HQ và tôi rất đồng ý. Vợ tôi, Tracy, là một người đàn bà tốt nhất. Cô đã phải chịu đựng cô đơn nhiều năm những lúc tôi ra chiến trường, tự mình chăm sóc ba đứa con nhỏ, không biết nếu tôi có được an toàn, hoặc thậm chí tôi có trở về hay không. Các con đã lớn và trưởng thành trong suốt thời gian dài với một người cha bán thời gian. Con trai trưởng của tôi bây giờ 21 tuổi, con gái đã 19, và con trai út 17 tuổi.

Trong mười năm kể từ biến cố 9/11, tôi vắng mặt tổng cộng là năm năm. Khi quay trở về nhà từ Iraq tôi lâm bệnh trầm cảm và mất ngủ. Đó là thời gian thật khổ não cho Tracy và con, nhưng cả gia đình đã sát cánh và giúp tôi phục hồi. Tôi hiểu mình may mắn vì có nhiều loại vết thương từ cuộc chiến không thể chữa lành. Trong số binh sĩ trở về từ chiến trường, có ngưòi đã phải tự kết liểu đời mình!

Nhưng, dù có tàn khốc đến thế nào đi nữa, chiến tranh đôi khi vẫn cần phải xảy ra; vũ khí có tầm hoạt động sát nhân mãnh liệt tới cỡ nào đi nữa, đôi khi cũng phải sử dụng, để bảo vệ đất nước, yểm trợ đồng minh và giúp đỡ những quốc gia yếu thế, chống lại những cường quốc có ý đồ gây hấn, xâm lăng.

commanderpaul_motherofcommander

Năm 2012, Paul ngày vinh thăng Trung Tá Hải Quân và mẹ, Bà Trương Thị Lài, trước mẫu hạm CVN-70.

* Ngôi Sao Đồng

Ngày 6 tháng 12 năm 2007.

Tại quân khu HQ, ông Đại tá của tôi nói hãy mang gia đình vào trại ngày thứ sáu. Khi làm lễ, Ông Đô Đốc gắn lên quân phục tôi huy chương Ngôi Sao Đồng (Bronze Star Medal).

Hình ảnh và phóng sự về buổi lễ này được in trong tạp chí Almanac FRCSW tháng Jan 2008, có trích đoạn như sau:

“Trung tá Paul LongMy Choate đã trầm trầm lên tiếng trong buổi lễ tuyên dương công trạng và gắn huy chương Bronze Star Medal tại Trung Tâm Hạm Đội Sẵn Sàng Tây Nam ( Fleet Readiness Center Southwest -FRCSW) vào ngày 06 tháng 12 năm 2007, từ tay của Phó Đô Đốc Thomas J. Kilcline Jr., Tư Lệnh Hải Quân Không Chiến (Commander Naval Air Force), về một kỳ công mà ông đã hoàn tất mỹ mãn trong cuộc chiến đem lại nền dân chủ cho quốc gia Iraq.

"I'm not hero."

Dù ông đã khiêm nhượng mà nói "Tôi không phải là anh hùng", nhưng, hàng ngàn chiến sĩ cũng như dân sự đã và đang chiến đấu và làm việc tại thành Baghdad, những ngừơi đã từ chiến trường trở về quê hương bình an, đã tuyên dương ông là một anh hùng.

Tưởng cũng nên nói sơ qua về NGÔI SAO ĐỒNG (The Bronze Star).

Đây là một huy chương chỉ dành cho những kỳ công nguy hiểm chết người đã thực hiện ngay tại chiến trường. Vinh dự này phải được chấp nhận của binh chủng Bộ Binh Hoa Kỳ và chỉ dành cho nhân vật nào có kỳ công đặc biệt trên mức bình thừơng.”

*2008: USS Makin Island.

Tôi được gởi qua Pascagoula Mississippi để giúp HQ hoàn tất xây dựng chiếc tàu chiến USS Makin Island LHD-8. Xưởng đóng tàu này đã bị tàn phá trong cơn bão Katrina và thời gian hoàn tất con tàu đã trễ mất 3 năm sau dự tính. Chúng tôi thiết lập việc kiểm soát và giám sát hãng N. đã trúng thầu phụ trách để xây dựng tàu. Chúng tôi tìm thấy nhiều bộ phận của tàu bị họ sơn phết lên để che phần rỉ sét, hư hỏng và phải tốn khoảng 8 tháng mới sửa xong.

Tháng 7 năm 2009 chúng tôi mới khởi hành từ Pascagoula tiến tới Nam Mỹ.

Trong thời gian tạm dừng qua cảng và cũng là lần đầu tiên ghé thăm hải cảng Rio De Janeiro, chiếc tàu lại bị hư hại trong bộ phận computer software và bánh lái làm mất khả năng chỉ huy. Thông thường, những chiếc tàu có thể điều khiển từ trên đài chỉ huy (bridge) hay từ bên dưới trong một căn phòng nằm ngay trên bánh lái được gọi là “after steering” vì vậy, để giải quyết vấn đề nầy, chỉ cần đưa ra lệnh chỉ huy tới after steering, chúng tôi có thể thành công trong việc điều khiển và di chuyển con tàu một cách an toàn.

Hướng quay về San Diego thật bình an. Chúng tôi đi thông qua Straights of Magellan, viếng thăm Brazil, Valparisa Chile, và Lima Peru.

Các cảng ở Valparisa Chile và Lima Peru thực sự rất tốt. Các thực phẩm ở Peru có thể cho là ngon nhất trên thế giới, và những người dân rất thân thiện. Đó là một đất nước nghèo, chúng tôi đã đi và sơn một trường học vào ngày thứ hai vô cảng, nhóm dưới quyền tôi cười và nói họ chưa bao giờ thấy một sĩ quan biết sơn!

Trong khoảng thời gian ba năm trên tàu này, tôi đã học được cách lái một tàu chiến HQ. Mặc dầu ngành chuyên môn của tôi là Chuyên Viên Kỹ Thuật và Bảo Trì Hàng Không (Aviation Maintenance and Engineering), nhưng ông Đại Tá gọi tôi lên đài chỉ huy cùng với ông. Đại Tá Landers là một phi công P3 và trong 20 năm qua ông đã không đi tàu, vậy mà lần này với chức vụ Sĩ Quan Chỉ Huy, chỉ huy chiếc USS Makin Island. Lúc đó ông nhanh chóng nhận ra rằng toàn thể đoàn thủy thủ trên tàu rất thiếu kinh nghiệm và cần huấn luyện.

Trong một phiên gác, vào lúc 11 giờ đêm chúng tôi khám phá ra một ống nước bị bể làm ngập ba tầng ngăn phía bên trái. Lúc đó tôi là Sĩ Quan Thâm Niên Hiện Diện (Senior Officer) nên đã hành động ngay lập tức để ngăn chặn nước ngập, bơm nước ra khỏi tàu và sửa chữa chỗ rỉ. Đại Tá Landers đã tỏ ra rất cảm kích, nói rằng ông tin tưởng vào sự xét đoán, khả năng hành động khi cần thiết của tôi, vì vậy, ông bảo tôi đến đài chỉ huy và học cách điều khiển tàu chiến. Ông muốn những sĩ quan trưởng thành, có kinh nghiệm, giúp ông. Mặc dù tôi không có kinh nghiệm điều khiển tàu, nhưng chỉ trong vòng một vài tuần tôi đã được trao một phần nhiệm vụ trên tàu, làm Sĩ Quan Chỉ Huy, chức vụ này có nghĩa là tôi phụ trách điều khiển tàu trên biển khi Đại Tá Hạm Trưởng không có mặt trên đầu tàu. Việc này thật ra rất quan trọng và thật khó khăn, bởi vì sự an toàn của chiến hạm và thủy thủ đoàn nằm trong tay tôi.


* Đánh Cờ Tướng, tranh giải Nato Chess Championship

Từ khi lên 8 tuổi tôi biết đánh cờ tướng do Ba tôi dạy. Năm 1981, tôi bắt đầu dự đấu giải cờ tướng, được xếp lên hàng chuyên gia cờ tướng của quốc gia vào năm 1983.

Năm 1984, tôi chơi cờ trong buổi dự thi giải US Open chess championship tại Dallas Texas. Khi gia nhập HQ, đã có nhiều năm tôi không thể dự những trận đấu cờ. Đến năm 2002, HQ nhận được quỹ để gởi thủy thủ đến dự các Giải Vô Địch Cờ Tướng Nato (Nato Chest Championship). Vì đã từng tham dự giải vô địch cờ gọi là Inter-Service Chess Championship ở Tucson, do đó tôi đủ điều kiện dự giải vô địch cờ Nato Chess Championship tại Brussels Belgium. Đó là một giải đấu quốc tế rất cao và tôi đã đánh một số đường cờ tướng hay nhất của tôi từ trước tới giờ. Tôi đã thắng một số giải lớn và cũng bị thua một số, nhưng nhiều chuyên gia cờ tướng quân sự từ nước ngoài như Đức, Thổ Nhĩ Kỳ, Pháp, Anh đều biết đến tôi từ lần đấu ấy.

paul_tracy___kids

Paul cùng Tracy và các con.

Năm 2008, sau khi trở về từ Iraq, nhờ chơi cờ tướng đã giúp tôi phục hồi tinh thần.

* 2012, Mẫu hạm USS Carl Vinson CVN-70

Ngày 01 Tháng Chín Năm 2011, 25 năm sau bước chân đầu tiên tới trại huấn luyện, tôi được thăng Hải Quân Trung Tá.

Ghi nhớ lại thời gian qua, bao nhiêu kỳ chuyển quân, hoàn thành biết bao nhiệm vụ nguy hiểm, những thương tích, thời gian phải sống xa gia đình, giờ đây, trở thành một chỉ huy, cảm thấy giống như niềm vui khi đội football New Orleans Saints cuối cùng giành cúp Superbowl.

Đó là một ngày nắng ấm San Diego, từ Los Angeles và Orange County, Mẹ tôi, các dì, cậu mợ Long, dượng David, anh chị em bà con và một số bạn đồng nghiệp đã có mặt. Được tổ chức tại một công viên nhỏ trên Naval Base Coronado ngay bên kia đường đối diện chiếc hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson CVN-70, buổi lễ diễn ra rất tốt đẹp.

Sau khi tuyên bố tôi được thăng chức HQ Trung Tá, HQ Đại Tá Wilson đã chuyển phần phát biểu ý kiến qua tôi.

Tôi đã nói:

- ... lý do tôi lên cấp Trung Tá ngày hôm nay, một phần cũng là nhờ những hy sinh đầu tiên từ bên mẹ và những chịu đựng của vợ con tôi. Mẹ rời khỏi quê hương Việt Nam và đến một đất nước mới với hai bàn tay trắng, để đám con có một cuộc sống tốt hơn và tôi là một người trong đám con được hưởng bởi sự lựa chọn hy sinh ấy...

Ngay sau buổi lễ, toàn thể gia đình tôi đã lên quan sát chiến hạm Carl Vinson CVN-70.

Như chiếc USS John C. Stennis, USS CVN-70 là một trong 10 Siêu Hàng Không Mẫu Hạm (Supercarriers) của nhóm tàu có tên Nimitz Class Carrier, là phi đạo cho chiến đấu cơ hoạt động trong Quân Chủng Hải Quân Hoa Kỳ. Chiếc tàu này nổi tiếng vì nó đã tung ra các đợt tấn công đầu tiên trên không ở Afghanistan sau 9/11 và cũng chính nó là chiếc tàu đem thi thể Osama Bin Laden thủy táng trên biển tháng Năm năm 2011.

Đấy cũng là tàu chiến kế tiếp của tôi, và tôi nhận lệnh trình diện trên tàu này vào tháng Tư năm 2012. Tôi đã mong đến ngày nhận công việc mới bởi vì đó được coi là một vị trí sĩ quan chỉ huy, có 500 thủy thủ làm việc dưới quyền tôi, phụ trách việc bảo trì tất cả số máy bay trên tàu.

Cuộc sống trong Hải quân Hoa Kỳ nhiều khi khó khăn nhưng cũng có những lúc rất thích thú. Tôi thích ngửi mùi biển mặn của đại dương, cảm giác của con tàu khi nó di chuyển trong nước, tình đồng đội của phi hành đoàn, và quan trọng nhất, sự hiểu biết rằng những gì chúng tôi làm trực tiếp để bảo vệ đất nước của chúng ta.

Nhiều thủy thủ chỉ cần ai đó để tâm sự, để chỉ cho họ đúng hướng, hoặc một ai đó để làm gương cho họ noi theo. Tôi đã từng là một thủy thủ, -một "Mustang", tên lóng để gọi những người đi từng bước từ mức thấp nhứt lần lần lên cao theo cách thi cử và khả năng làm việc- nên tôi sẳn sàng làm gương cho họ. Theo tôi, con đường theo cách tôi đi trong HQ là một trong những con đường khó khăn nhất. Hầu hết các sĩ quan đều ra trường từ học viện HQ hay từ trường đào tạo sĩ quan.

Bên cạnh những điều khó nhọc ấy, là sự nôn nao phấn khởi mỗi khi tàu ghé bến viếng thăm các nước mới. Tôi yêu Singapore và tin rằng, đây là thành phố hiếm lạ sạch nhất trên thế giới. Hồng Kông ồn ào, đầy sức sống. Dubai thật quyến rũ. Những chuyến tàu đã đưa chúng tôi đến Seattle và Hobart Tazmania, cả hai thành phố đẹp khỏi chỗ chê.

Chúng tôi đã có một thời gian thật vui khi viếng thăm San Francisco năm 2010, nhân dịp tuần lễ kỷ niệm của những hạm đội. Tàu chúng tôi thả neo ngay sát cầu tàu, ngay bên trong trung tâm thành phố. Điều làm tôi ngạc nhiên nhất là sự nồng hậu hiếu khách của những người dân và đồ ăn Tàu ở San Francisco rất ngon.

Có rất nhiều điều tôi đã tham gia thông qua HQ. Đánh golf tại Hawaii, Băng Đảo và Bermuda, lặn sâu dưới biển tại Bahrain, viếng thăm một nhà máy làm chocolate bên Úc và tôi đã đi một chuyến xe lửa đến viếng tu viện có 10,000 Phật ở Shatin bên Trung Quốc.

paul-on-cvn70a

Paul trong cuộc tiếp tân trên mẫu hạm khi CVN-70 thăm Úc trong Tháng Tư 2012.

* Ngày 24 tháng Tư , 2012

Báo chí ở nước Úc đã đăng tải bản tin loan báo CVN-70 với hàng ngàn thủy thủ đã tới cảng Fremantle:

Vào lúc 18:56:01, ngoài khơi Gage Roads cảng Fremantle, Commander của USS Carl Vinson CVN-70, chiếc hàng không mẫu hạm Mỹ thả neo tại Fremantle đã tuyên bố Úc châu là một 'bạn tốt' về chiến dịch hợp lực phòng thủ.

Mẫu hạm USS Carl Vinson CVN-70, với chiều dài 340 mét và có sức chứa hơn 75 phi cơ, đã được tuần dương hạm USS Bunker Hill kèm theo.

Phó Đô Đốc Thomas Shannon phát biểu rằng Hoa Kỳ xem mối quan hệ với Úc châu là một sứ mệnh chung rất quan trọng.

Ông nói: "Chúng tôi đến đây lần này, để chứng minh sự cam kết từ binh chủng Hải quân và quốc gia chúng tôi trong việc đảm bảo an ninh, ổn định hòa bình và thịnh vượng trong khu vực này."

Có hơn 4,700 thủy thủ trên hai chiếc tàu đang tiếp cận để hoàn thành một đợt chuyển quân hoạt động trong vòng sáu tháng mà hai chiếc tàu này sẽ đưa họ đến Trung Đông, Ấn Độ và Hồng Kông.

Sau khi trợ giúp cho quân đội Mỹ tại Trung Đông, gần đây, các tàu chiến này đã tham gia trong một cuộc tập dợt với Hải quân Ấn Độ.

Ông Tư Lệnh phát biểu rằng một số phi hành đoàn sẽ tham gia vào lễ kỷ niệm ANZAC Day vào ngày mai, bao gồm cả diễn hành chung trong buổi lể hội. Một số khác sẽ bỏ ra năm ngày để hoạt động thiện nguyện cho cộng đồng, bao gồm cả bệnh viện Parkerville Children’s Hospital và Princess Margaret Hospital.


Sau chuyến thăm Úc, mẫu hạm CVN-70 tới quần đảo Hawaii.

Quả là một quá trình chuyển đổi đầy thách thức. Hàng trăm thủy thủ đang phụ thuộc vào tôi. Để giúp đỡ, dẫn đường họ, bắt buộc tôi phải có các quyết định đúng và làm một vị chỉ huy gương mẫu.

Hồi còn nhỏ, có bao giờ tôi nghĩ rằng sẽ yêu thích HQ, hiến tất cả tình thương để phục vụ quê hương trên biển cả, rằng tôi vẫn và sẽ ở đây 26 năm sau đó để bây giờ thành một chỉ huy trưởng.

Tôi thấy đất nước này có nhiều cơ hội hơn bất cứ nơi nào trên thế giới, nhưng chính mỗi người phải quyết định và sẵn sàng cho những bước tiến của mình. kế hoạch của tôi là nắm lấy HQ để đạt được thành công mà tôi mong muốn. Tất cả các mục tiêu mà tôi đạt được, nền giáo dục tôi có, tương lai tôi đã nắm giữ là nhờ sự giúp đỡ của Hải Quân Mỹ cùng với sự hậu thuẫn của gia đình và những lời khuyến khích của dì Thư "sĩ nông công thương binh, cố gắng sẽ thành công".

Là đứa con hai giòng máu, Mỹ-Việt, ngày xưa mẹ phải dùng nón che mặt bảo vệ tôi, ngày nay tôi hãnh diện trân trọng đội lên chiếc nón của Quân Chủng Hải Quân Hoa Kỳ.

Tôi mong ước sâu xa, ngày nào đó, từ quê cha, trên Hàng Không Mẫu Hạm CVN-70 sẽ thả neo ngoài khơi quê mẹ, sẽ đặt chân lên Sài Gòn và có dì Thư từ Mỹ bay qua đón.

Mới đây, dì Tám có gởi bằng email qua cho tôi nghe một bài ca:
"Cùng nhau đi tới Saigon 
Cùng nhau đi tới Saigon 
Thủ đô yêu dấu
nước Nam tự do …" *

Tôi mơ ngày hai dì cháu sẽ có lúc cùng ca bài này tại Saigon, nơi tôi đã rời xa khi mới hơn ba tuổi. Chắc chắn dì Thư sẽ đưa tôi về thăm ngôi nhà thơ ấu ở Phú Lâm, ghé xem nhà bảo sanh Đức Chính là nơi tôi được sinh ra. Tôi sẽ được thấy tận mắt miền đất quê ngoại mà mẹ tôi thường nhắc.

Và tôi, sẽ mãi mãi nhìn ra đại dương để nhớ đến ông ngoại tôi, với lòng thương yêu vô bờ bến, đã đặt tên cho tôi, Trương Long Mỹ, năm 1967, tại Sài Gòn, miền Nam Việt Nam./.

Paul Long Mỹ Choate
Nguyên tác Anh ngữ
Trương Kim Hoàng Thư
dịch và viết thêm.

Ghi chú: (*) Bản nhạc Ghé Bến Sài Gòn của Văn Phụng.

Paul LongMy Choate & Trương Kim Hoàng Thư

Ý kiến bạn đọc
03/11/201810:17:03
Khách
Sao không thấy nói về Ba của Paul?
08/05/201514:25:12
Khách
This is a great article. Paul, you are a hero and a real role model . We are Vietnamese Americans love to have you on our side. Your dreams reflect mine. And interestingly we were borned at the same hospital in Saigon, nha thuong Duc Chinh. Once again, I am proud to have you as the commander of USS Carl Vinson – one of most modernized and famous nuclear supercarrier. Congratulations!
01/07/201213:00:15
Khách
Thân gửi H-A, Thanh, Hương, wowang, & KQ,

Em cảm ơn các anh chị em đã đọc bài và góp ý kiến xây dựng rất qúi.
Em đã cố gắng rất nhiều khi dịch bài này vì khả năng tiếng Việt của em không nhiều, nhờ bậc huynh trưởng góp ý để em sửa sai.
Em học thêm được rất nhiều chuyện và thêm nhiều chữ, nhứt là về lính.
Một lần nữa xin cảm ơn. Em sẽ sửa lại những điều sai.
Thư
02/07/201221:02:59
Khách
Xin chào cô Hoàng Kim Thư,

Nếu được và cũng như không có gì phiền hà, thì khi mà tác giả hoàn tất bản viết bằng Anh Ngữ, thì xin tác giả gởi qua email cho tôi có được không? Địa chỉ email của tôi như sau và xin cám ơn tác giả trước.
wowang4@gmail.com

wowang
02/07/201200:24:03
Khách

Em đang dich qua tiếng Anh phần của em viết và sẽ góp lại với phần của Paul viết.
Nếu được phép của Việt Báo VVNM, em sẽ gởi vô.
Cám ơn ông/bà Wowang đã đọc bài.
Thư
18/07/201222:31:25
Khách
TÔi rất cãm động,không những đọc một lần,mà tôi đã đọc rất nhiều lần,phải đất nước nầy cho chúng ta rất nhiều cơ hội,nhưng muốn được thành công là tuỳ chúng ta.Là mẹ có con đi lính, tôi chưa bao giờ nghỉ họ đã trãi qua rất nhiều gian nan ,và phải có rất nhều nghị lực để vươn đến thành công.Cám ơn con,Cậu Long Mỷ.
29/06/201219:36:28
Khách
________________________________________
Tiện tay xin mạn phép gợi ý cùng Ngọc Anh và cô Trương Kim Hoàng Thư
nên edit lại một chút cho viên KIM CƯƠNG thêm đầy sắc màu lấp lánh .

Cũng như đọc giả già cũng như trẻ khi đọc họ biết ngay đấy là : con em của công dân VIỆT NAM CỘNG HOÀ 100% viết .
________________________________________

Tôi chỉ tạm thời cắt một vài đoạn nhớ bất chợt quote ra , chứ các cô nên đọc lại từ đầu và chỉnh lại , không có chi là big deal nhưng dân nhà nghề đọc , họ biết và thấy nó thiếu như ăn phở bị thiếu Ngò Gai và lá rau Quế vậy .
________________________________________

“Những điều chúng tôi đã học được là kẻ thù khủng bố này rất nguy hiểm và thông minh. Đám khủng bố bị chúng tôi tiêu diệt chỉ là những đám lẻ tẻ ngu xuẩn, nhưng đám khủng bố thật sự thì liên tục thay đổi cách tiếp cận để tấn công chúng tôi. Khi bay qua trại Stryker gần sân bay Baghdad, vài lần chúng tôi bị tấn công bằng mortar và súng nhỏ (small arms fire), nhưng tôi tương đối an toàn. Một số căn cứ khác bị tấn công hàng ngày. Tại căn cứ Loyalty thành phố Sadr, đã có một vụ nổ bom xe phía bên kia bức tường cách tôi chừng khoảng 60m và có rất nhiều chiến sĩ chạy sang ẩn núp bên trong tòa nhà của chúng tôi.

Sự căng thẳng của chiến trường đã đến mức không thể chịu đựng nổi. Mỗi đêm bị tấn công bằng mortar. Mỗi ngày mỗi thêm người chết. Tại Baghdad tôi đã không thể gọi là "ngủ" trong 3 tháng. Lý do giúp tôi giữ vững vị trí chỉ huy của mình là, khi biết rằng càng nhiều bộ phận IED chúng tôi cài đặt, càng có nhiều chiến sĩ có thể được cứu, và càng nhiều kẻ khủng bố bị tiêu diệt.

Một lần địch tấn công, mặc dù đã hết sức cẩn thận tôi cũng đã ngã nhào và bị chấn thương trên đầu.

Vào mùa hè, có thế nói Iraq là một nơi nóng nhất trên thế giới, nhiệt kế có thể tăng hơn 120 độ, cộng thêm 40 pounds của bộ quân phục áo giáp. Bất cứ lúc nào đi ra ngoài, sức nóng có thể làm mình ngộp thở. Nhiều binh lính tự dưng ngã ra chết mà không hiểu nguyên do…
Paul Long Mỹ Choate & Trương Kim Hoàng Thư
________________________________________

vài lần chúng tôi bị tấn công bằng mortar và súng nhỏ (small arms fire),

Nên dịch lại một cách nhà ... lính

Vài lần chúng tôi bị tấn công bằng SÚNG CỐI ( Motar )và SÚNG TRƯỜNG ĐỦ LOẠI (small arms fire )



________________________________________

Phần nhớ bất chợt thứ nhì :

Hướng quay về San Diego thật bình an. Chúng tôi đi thông qua Straights of Magellan, viếng thăm Brazil, Valparisa Chile, và Lima Peru.

Các cảng ở Valparisa Chile và Lima Peru thực sự rất tốt. Các thực phẩm ở Peru có thể cho là ngon nhất trên thế giới, và những người dân rất thân thiện. Đó là một đất nước nghèo, chúng tôi đã đi và sơn một trường học vào ngày thứ hai vô cảng, nhóm dưới quyền tôi cười và nói họ chưa bao giờ thấy một sĩ quan biết sơn!

Trong khoảng thời gian ba năm trên tàu này, tôi đã học được cách lái một tàu chiến HQ. Mặc dầu ngành chuyên môn của tôi là Aviation Maintenance and Engineering, nhưng ông Captain kêu tôi lên đầu cầu cùng với ông. Captain Landers là một phi công P3 và trong 20 năm qua ông đã không lên tàu, vậy mà lần này với chức vụ Commanding Officer, đứng chỉ huy chiếc USS Makin Island. Lúc đó ông nhanh chóng nhận ra rằng toàn thể đoàn thủy thủ trên tàu rất thiếu kinh nghiệm và cần huấn luyện.

Trong một phiên gác, vào lúc 11 giờ đêm chúng tôi khám phá ra một ống nước bị bể làm ngập ba tầng ngăn phía bên trái. Lúc đó tôi giữ chức Senior Officer nên đã hành động ngay lập tức để ngăn chặn cơn ngập lụt, bơm nước ra bên hông khỏi tàu và sửa chữa chỗ rỉ. Captain Landers đã tỏ ra rất cảm kích, nói rằng ông tin tưởng vào sự xét đoán, khả năng hành động khi cần thiết của tôi, vì vậy, ông bảo tôi đến đầu cầu và học cách điều khiển tàu chiến. Ông muốn những sĩ quan trưởng thành, có kinh nghiệm, giúp ông. Mặc dù tôi không có kinh nghiệm điều k
30/06/201203:21:06
Khách
Ông muốn những sĩ quan trưởng thành, có kinh nghiệm, giúp ông. Mặc dù tôi không có kinh nghiệm điều khiển tàu, chỉ trong vòng một vài tuần họ đã cho tôi nhiệm vụ một phần trên tàu và phong chức Officer Of The Deck, chức vụ này có nghĩa là tôi phụ trách điều khiển tàu trên biển khi Captain không có mặt trên đầu tàu. Việc này thật ra rất quan trọng và thật khó


________________________________________

Chử đầu cầu phải sửa lại là : Phòng lái

.
.
.

Phòng Lái - Chỉ Huy ( Bridge )nếu muốn dich cho một chiến hạm to lớn như Hàng Không Mẫu Hạm trở xuống đến Thiết Giáp Hạm .

Còn kỳ dư từ thứ đó trở xuống Dương Vận Hạm , Hải Vận Hạm , Tuần Dương Hạm .. xuống nửa đến hàng ĐỈNH , và Tiểu Đỉnh chỉ nên dịch là Phòng Lái ( Bridge )

Hồi xa xưa , khi người ta chỉ có thuyến buồm . Họ đóng cái phòng lái bằng những thân gổ ghép lại như một chiếc cầu bắc ngang qua hên bên mạn Tả - Hửu của thân thuyền buồm . Trên đó nhân viên hải hành cùng thuyền trưởng làm việc điều khiển việc di hành của chiếc thuyền buồm . nên họ gọi là Bridge .

Cho đến các chiến hạm khổng lồ chạy bằng buồm họ gọi là ( Command Bridge )
________________________________________

Command Bridge hay Bridge đều giống như nhau đều dùng để lái tàu và truyền tin đến các nơi trên tàu cũng như đến hầm máy , cho máy tiến hay thoái , chậm hay nhanh .

Từ ngày con người biết ứng dụng , Electrical , Pneumatic và Hydrolic ( Điện , Khí Lực , Thuỹ Lực ). Những con tàu tối tân đều dùng nó để viễn khiển đến hầm máy , Bánh Lái . Neo ..v.v .
________________________________________

Càng ngày con người càng thông minh hơn , nên họ đóng tàu - thuyền có nhiều hình dạng khác nhau để thích ứng điều kiện bến cãng và vùng nước hoạt động , nên hình dáng con tàu và phòng lái ( Bridge ) có nhiều thay đổi .

Thay đổi như thế nào cũng được nhưng phải tuyệt đối tuân theo luật Hàng Hải cho dù nó di chuyễn trong sông hai biển khơi đều như nhau .
________________________________________
Trên phòng lái phải có cột cờ , trên cột cờ phải có đèn trắng có ánh sáng chiếu rọi 180 độ,

bao nhiêu đèn trắng tuỳ theo chiều dài của con tàu mà họ phải gắn thêm , và cuối cùng trên chót đỉnh ( Tip ) cột đèn trắng là một đèn trắng có ánh sáng chiều rọi đủ mọi hướng 360 độ , nếu tàu chở dầu , chất dể cháy , dể nổ . Đèn nầy phải là màu đỏ vào ban đêm , ban ngày treo một lá cờ đuôi nheo màu đỏ trên cao ở cột cờ , ngang với đèn trắng chiếu 180 độ .

- Tàu dài từ 1 mét cho đến 47.5 mét có 1 đèn trắng chiếu 180 độ

- Tàu dài từ 47.5 cho đến 110 mét có 2 đèn trắng chiếu 180 độ

- Tàu dài từ 110 mét trở lên có 3 đèn trắng .

ĐÈN trắng dùng để nhận biết được chiều dài của con tàu , cũng như chiều dài của đoàn xà lan ( Barge )mà tầu đó đang lai dắt phía sau .
-------------------

Trên Phòng lái hai bên tàu là 2 la bàn từ dùng để làm điểm đứng con tàu để biết mình xa bờ ( cầu cãng ) bao nhiêu mét cho đến bao nhiêu cây số ( Hải Hành Cận Duyên ) bộ binh cũng dùng cách nầy để chấm điểm đứng

Phía dưới 2 la bàn từ là hai đèn Cạnh (* Đèn Mạn )

2 đèn nầy có góc che là 120 độ chiếu thẳng ra trước và ra hông thêm 30 độ ra phía sau của góc che .
- Đèn xanh ở bên mạn Phải
- Đèn đỏ ở bên mạn trái

cho nên khi mình đi trên sông - biển và hai con tàu sẻ hội tụ nhau tại một điểm , tàu nào nhìn thấy đèn xanh của tàu kia , thì phải nhường tránh hướng đi của tàu kia bằng cách giảm vận tốc , hoặc nhắm vào phía sau đèn lái của tàu kia để vận chuyễn .

- 2 đèn Mạn phải nằm bên trong trong phần nhô ra to nhất của thân tàu ở khoãng cách 60 Cm ( 6 tất )

Cho nên ban đêm khi hải hành , thấy con tàu phía trước mình có khoãng cách giửa 2 đèn xanh và đỏ xa nhau càng xa , là tàu đó thân rộng càng lớn .

Nếu thấy xa 20 mét là tàu đó khoãng 21.2 mét .
.
.
Nếu thấy hai cái đ
28/06/201204:17:04
Khách
Đã đọc bài 1, và bài nầy hay hơn nữa. Tôi lái xe thỉnh thoảng bắt gặp những chiếc nơ màu vàng, màu tím ...cột trên hàng cây bên lề đường, chợt tim đau nhói.
Nhưng như lời ông viết : "dù có tàn khốc đến thế nào đi nữa, chiến tranh đôi khi vẫn cần phải xảy ra; vũ khí có tầm hoạt động sát nhân mãnh liệt tới cỡ nào đi nữa, đôi khi cũng phải sử dụng, để bảo vệ đất nước, yểm trợ đồng minh và giúp đỡ những quốc gia yếu thế, chống lại những cường quốc có ý đồ gây hấn, xâm lăng."
Tôi thật cảm phục ý chí và lòng yêu nước của ông
Rất hãnh diện cho ngươì Việt tha hương có một người con mang hai dòng máu như ông
Chúc ông bình an và gia đình luôn vững bền hạnh phúc.
27/06/201212:15:54
Khách
Bài viết rất hay. Những người Việt tỵ nạn chúng ta có quyền hãnh diện về thế hệ con cháu của mình.
Đoạn kết của bài rất cảm động. Tôi mong một ngày không xa,tất cả người VN chúng ta đều được "Ghé Bến Saigon" trong nỗi niềm hân hoan : Thủ Đô yêu dấu, nước Nam tự do.
H-A
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 69,973,212
Tác giả sinh quán tại Hội An, Quảng Nam, tốt nghiệp Đốc Sự Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, Cựu tù chinh trị, hiện định cư tại Virginia, đã góp bài cho Việt Báo Viết Về Nước Mỹ từ nhiều năm qua. Nhà văn Võ Phiến nhận xét về các nhân vật trong ba tập truyện của Phạm Thành Châu đã xuất bản, phải kêu là tuyệt vời. Sao mà họ chung tình đến thế. Nhân vật trong truyện mới của ông Châu sau đây còn “trên cả tuyệt vời”, nói theo kiểu các trang mạng phổ biến từ trong nước.
Tác giả là một dương cầm thủ đồng thời là nhà văn, có nhiều CD và sách đã xuất bản, từng nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ. Sau đây là truyện ngắn mới của bà dành cho mùa giáng sinh đang tới.
Tác giả sinh năm 1940, cựu sĩ quan VNCH, khoá 12 SVSQ Thủ Đức, cựu tù chính trị, đến Mỹ năm 1991 theo diện H.O. 9, hiện định cư tại Greenville, South Carolina, tham dự Viết Về nước Mỹ từ 2002. Tác phẩm đã xuất bản: Hành Trình Về Phương Đông. Sau đây là hai bài viết mới của ông.
Tác giả là cư dân Roches- ter, NewYork. Hình ảnh và bài viết về nước Mỹ đầu tiên của tác giả được chuyển tới bằng điện thư, được giới thiệu như sau:
Tác giả tên thật là Tô Văn Cấp, sinh năm 1941, cựu sĩ quan VNCH, cựu tù công sản, định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O. 1, hiện làm việc tại học khu Ocean View. Ông đã góp nhiều bài viết về nước Mỹ, bài nào cũng cho thấy tấm lòng, và sự lạc quan, yêu đời. Bài viết mới nhất là một họp mặt trường cũ, với niềm vui của tình thầy trò.
Tác giả dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu, 2000, hai lần nhận giải thưởng, đã là thành viên Ban Tuyển Chọn Chung Kết từ ba năm qua. Sách đã xuất bản: Chuyện Miền Thôn Dã.
Với một loạt truyện tự sự khác thường về đề tài đồng tính và sức mạnh gia đình, Lê Thị đã nhận giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2012. Tác giả, 35 tuổi, cho biết đã đến Mỹ khi còn là một cậu bé “tiếng Việt chưa đủ vốn, tiếng Anh dăm ba chữ chập choẹ,” hiện hoạt động trong ngành thiết kế thời trang tại New York và Chicago. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Tác giả tên thật là Tô vĩnh Phúc. Trước 1975, tốt nghiệp cử nhân Luật Khoa và Văn Khoa tại Sài Gòn. Định cư tại Sacramento, California từ 1986, học và làm nhiều ngành khác nhau: Chủ nhiệm tuần báo Phù Sa, phát hành tại bắc Cali vào những năm 1990.
Tác giả đã nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ. Ông là cư dân Lacey, Washington State, tốt nghiệp MA, ngành giáo dục năm 2000, từng trong ban giảng huấn tại trường dạy người da đỏ và giảng viên tại Đại học cộng đồng SPSCC, Olympia, WA.
Bài dự viết về nước Mỹ gửi từ Sài Gòn bằng email, được đăng nguyên văn, không thêm bớt. Bài viết ngắn, tác giả 30 tuổi, cho biết đây là những câu hỏi mong được các chú bác anh em ở Mỹ trả lời.