Hôm nay,  

Chú Mường

10/01/201300:00:00(Xem: 752412)
viet-ve-nuoc-my_190x135Tác giả là một nhà báo, từng trong nhóm chủ biên một số tạp chí, tuần báo trên Dallas, Texas. Sau đây là bài viết Phan mới góp.

Đã mấy buổi chiều, tôi đưa chú Mường đi tìm chỗ ở. Người ta cần một nơi để về, lớn là quê hương thì chú đã mất; nhỏ là một chỗ ngả lưng khi chim về tổ, con người còn cần thêm một bếp lửa gia đình trong cõi u minh, vậy mà cái gì chú cũng không có. Người lính cũ còn bương bả đi tìm một chỗ ở cho vợ chồng già trên xứ người, cứ như cố tình vạch mặt con cháu. Tôi ngại lắm, biết rõ sinh hoạt của gia đình mình không quen có người lạ trong nhà, nên bao năm qua cứ để phòng trống mà không cho ai “share” phòng là vậy. Nhưng đã đến nước này thì cóc đành mở miệng với vợ, “anh muốn nói chú thím về nhà mình ở tạm một thời gian, rồi tính sau…”

Biết vợ con mình quý chú thím lắm nên mới dám nói, nhưng lại phải tánh chú gàn, như người đã ăn cơm lính thì cả đời quý tình trọng nghĩa, còn chuyện phải nhờ vả bất cứ ai cũng lấy làm khó chịu. Chú thím thương con cháu là một chuyện, nhưng bàn đến chuyện ông bà về ở chung với gia đình tôi thì lại thiếu tự nhiên.

Hết cách, tôi đưa chú đi tìm chỗ ở, còn buồn hơn đưa chú về nơi gió cát; bởi đời người ta trước sau cũng chỉ là ở trọ trần gian, ở nán thêm buồn. Nhất là những buổi chiều lơ thơ tóc trắng, chú ngồi căng mắt dò tìm những địa chỉ cho thuê phòng trên tờ báo nhàu nát; cái kính lão gục đầu trước thời đại không còn ai kính lão nữa.

Chiều về treo đèn đường, gió mưa lất phất, đêm xuống quặn lòng, hai chú cháu loanh quanh đi tìm địa chỉ trên những tờ báo mà chú đã đánh dấu. Tôi chẳng thấy đâu là nhà-theo cái nghĩa gia đình, đâu cũng chỉ là một căn phòng lạnh lẽo cho thuê. Nhà cho “share” thường giống nhau ở điểm thiếu tình gia đình. Có nơi chúng tôi đến, tiếng nói cười trong nhà rôm rả, nhưng cái không khí đông người dưng mà không thân, làm cho người ta thêm cô đơn. Không biết tôi có quá nhạy cảm hay không, nhưng khi ngồi chung bàn với năm, ba người cùng share phòng, mọi người vẫn tử tế với nhau vì cùng hoàn cảnh, nhưng khoảng cách không thể nào gần gũi được cũng chính vì cái hoàn cảnh đưa đẩy nhau tới chung một nóc nhà chứ không phải tình máu mủ, hay ít nhất cũng là tình cảm; lòng ngưỡng mộ nhau mà thành quan hệ. Tôi bắt gặp điều đó trong ánh mắt những người đi share phòng-buồn rười rượi…

Tôi đã đi xem chỗ ở với chú mấy buổi chiều vì chú Mường già khụ, mắt mũi kém, không rành đường. Phần chú cũng không quen nói chuyện giá cả, lại sĩ diện nên không muốn nhiều người biết chú thím phải đi thuê phòng để ở. Chú thím giữ chuyện kín bưng, nhưng lòng tôi lại nghĩ ngợi nhiều về tình cảm gia đình có thật sự còn không trong đời sống hôm nay? Không hữu sự không thấy sự vô giá của tình máu mủ; Dường như tôi sợ một ngày nào, những người thân rời xa mình, cuộc sống không làm khó bằng tình cảm bị tổn thương. Tôi càng nghĩ càng thương chú vì hai chú cháu tôi ít nói nhưng hiểu nhau nên mới thân tình.

Tôi lại nghĩ về người thân của chú, nhưng không tiện hỏi vì tôi không thích hỏi ai những câu khó trả lời. Hai chú cháu cứ đi chán thì lại về nhà tôi, hay quán xá bên đường, có ngồi uống cốc bia, ăn chút bữa tối, cũng chẳng ngon lành gì khi trong lòng cứ rối bời sự tuyệt vọng; một giai đoạn lòng người tuyệt vọng với nước mất nhà tan đã xa; tiếp đến là người lính miền nam như chú tuyệt vọng trong nhà tù nhỏ; gia đình, vợ con tuyệt vọng trong nhà tù lớn khi cả nước là một nhà tù vĩ đại. Rồi người vượt biển, vượt biên tuyệt vọng vì không tìm được con đường sống. Khi sinh lộ hé ra bằng ý chí và sự cần mẫn của người Việt thì tuyệt vọng không mất đi mà biến thành vô vọng khi những giá trị văn hoá truyền thống biến thái trên đất tạm dung. Cái giá của tự do lầm tưởng làm xáo trộn văn hoá đông tây...

Buồn nhất là chiều hôm, cả thím cũng đi để quyết định thuê căn phòng mà chú đã xem qua, ưng ý, đã về bàn với thím. Nhìn người thím ốm đau bệnh hoạn còn lặn lội đi thuê một chỗ nằm. sao không phải là một thước-hai thước cho xong một phận người; có phải đỡ tủi thân người đi; đỡ đau lòng kẻ ở. -Ngày mai, con cái của chú thím hay tin quỹ thời gian của cha hay mẹ đã hết. Những người con đang làm việc trong hãng xưởng hay đang vui chơi với con của họ có chạnh lòng vĩnh biệt người cha đã giã từ gác trọ, cuối đời sương gió lẻ loi. Người cha bao năm áo lính bấy năm áo tù, rồi dãi nắng dầm mưa để mưu sinh cho gia đình trong ngục tù bao la khi được thả ra khỏi nhà tù cải tạo. Khi đã lục tuần còn vì tương lai con cháu nên phải bỏ xứ ra đi, hư-thực mấy người đi đúng nghĩa là tỵ nạn chính trị; chỉ biết chú phải bỏ lại cơ hội được chết trên quê hương, vui sướng gì ra đi xuất ngoại khi đã da mồi tóc bạc…

Rồi người mẹ, không lẽ thím có lỗi khi sinh ra những người con? Chỉ biết chắc là thím không bỏ đói con cái; thậm chí nghèo hèn chồng đi tù tội thì thím cũng vẫn cho con đi học. Nhưng nay vì sao chú thím không thể sống chung với con cái? Dòng đời không trả ơn cưu mang; một đoạn đời nuôi con khôn lớn thường được xem như trả nợ cha mẹ đã sinh ra và cưu mang mình. Nước chảy xuôi; lá về cội là vậy. Chuyện đền ơn đáp nghĩa sinh thành, phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già như chuyện duyên phận; phước con cháu của mỗi người như phần ơn trên ban không đều bao giờ. Bởi người trẻ có nỗi khổ tâm khi không làm được những ước muốn cho cha mẹ; người già có nỗi khổ lụy khi không chấp nhận được lối sống, cách sống của người trẻ, tạo nên những xung đột trong gia đình di dân là hình ảnh nơi đâu cũng thấy, chả riêng gì một nhà.

Nhưng phần thiệt thòi cho người lính cũ cứ đeo bám những người chú đã lao đao lận đận cả đời. Khi trẻ thì ngập ngụa chiến tranh, tuổi đời đẹp nhất trong đời người thì chìm đắm trong khói lửa, hận thù của cuộc nội chiến đã xa; khi hoà bình thì tù đày cho thoả sự ngu xuẩn của kẻ thắng; rồi bươn trải trên quê hương nghiệt ngã để sống còn; khi nhìn lại tuổi đời đã xanh rêu thì lại thêm một lần bỏ xứ ra đi vì tương lai con cháu. Bươn bả trên xứ người tối mặt đến nhắm mắt xuôi tay, hết một đời người sinh ra cùng nghịch cảnh là thân phận người lính Việt Nam Cộng Hoà. Nếu con cháu hiểu được để chầp nhận cha mẹ lính cũ thì đời sống bớt muộn phiền hơn những khó khăn đời sống ở hải ngoại. Nhưng bản chất của đời sống là nghiệt ngã, lòng người là ích kỷ. Sự nhỏ nhen của lòng người, lòng vị kỷ đã giết chết người thím trong uất ức, giận hờn, không lâu sau khi chú thím dọn ra ở riêng nơi nhà trọ.

Thím đi khá đột ngột, bất ngờ, trong thương tiếc của người quen; nhưng kẻ biết vì sao vẫn lặng thinh - đó lại chính là con cái của chú thím. Còn nỗi đau nào cay đắng hơn trong lòng người lính già vẫn đi về gác trọ từ hôm đưa vợ về bên kia thế giới.

Sáng nay trong căn phòng vắng lặng, tôi ngồi soạn lại mớ sách báo trên kệ, mớ hình ảnh trong computer đã hết sức chứa, phải bỏ bớt,… nhìn lại hình ảnh tang lễ của thím, tôi thấy chú vẫn lặng lẽ đậu xe, xách túi thức ăn sẵn mua ngoài hàng quán, tra chìa khoá vào cửa căn gác trọ, bước vào căn phòng đã vĩnh viễn không còn thím chờ đợi. Chú bày thức ăn ra, thắp nén hương mời người bạn đời đã yêu thương lính trận, nuôi dạy con cái cho chú, nuôi tù cải tạo khi chú gãy súng tháng tư… lòng dạ nào chú ăn nổi nữa, nên chỉ uống ly vang, -ly nào giải thoát người lính già, khi cảnh sát báo tin, “cha của ông (bà) đã qua đời tối hôm qua, hôm kia, nơi gác trọ…” Cuộc sống của những người con vẫn tiếp diễn sau vài ngày bận rộn, phải nghỉ việc vì tang lễ.

Đời người sao buồn quá, nhất là những người lính cũ, cô đơn tới hơi thở cuối cùng.

Có lẽ nên để chú đọc khi chú chưa uống ly cuối cùng, ít nhất cũng tránh được lầm lỡ xưa cũ là sống không cho ăn chết làm văn tế ruồi; đời nay, cha mẹ còn không lo, hồi thẳng cẳng thì lục tìm bảo hiểm nhân thọ để ở đâu?

Phan

Ý kiến bạn đọc
19/01/201303:05:25
Khách
Người có lòng như PHAN nhìn thấy những chú Mường cô đơn trên nước Mỹ rồi ray rứt xót xa;thế cũng hay vì ngối đây mà nghĩ dến muôn vàn những chú Mường khác cũng sống thầm lặng quạnh hiu mà còn đói cơm rách áo ngay chính trên quê hương của mình thì còn thảm thiết đến đâu nữa!

Kiếp nhân sinh phù thế là vậy thôi ...Nếu mình có đức tin ,mình sẽ thấy được phần nào nguồn an ủi...thế thôi !

12/01/201318:06:42
Khách
Theo tui nghĩ chúng ta phải cần tính mình, đừng hy vọng đầu tư vào ai cả, như con mèo đây, sống như diễn viên Hongcong, chỉ biết lo cho mình ngon lành thôi hehe, tự túc độc lập là mình thương mình đó.
12/01/201307:08:24
Khách
Hay và cảm động
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 58,031,953
Tác giả sinh tại Saigon năm 1962, hiện cư trú tại Tulsa, Oklahoma. Nghề nghiệp: kỹ sư cơ khí, làm cho hãng Learjet, Wichita. Học vấn: cao học. Gia đình: vợ và ba con- hai gái, một trai. Góp bài Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu tiên, Lê Như Đức đã nhận giải bán kết 2001 và là một trong những tác giả được đặc biệt quí trọng. Sau hơn 8 năm ngưng viết và bặt tin, Thảo Ơi là bài viết mới nhất của ông.
Tác giả, một kỹ sư điện tử tại công ty Intel, Bắc California, dự Viết Về Nước Mỹ từ 2008 và đã lần lượt nhận Giải Danh Dư 2009, với bài "Tình Nghĩa, Nghĩa Tình", Giải Vinh Danh Tác Phẩm 2010, với bài “Việc Làm Ơi, Mi Đi Đâu”. Bằng sức viết được thể hiện mạnh mẽ suốt 5 năm, với bài “Những Đoạn Đường Cho Nhau”, kể về một người bạn và tình bạn trong “đám con nít của Sài gòn thất thủ năm xưa, Khôi An đã trở thành tác giả nhận giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2013.
Tác giả lần đầu dự viết về nước Mỹ. Theo bài viết, đây là chuyện kể của một bà mẹ trong gia đình đến Mỹ theo diện H.O., an cư ở Seattle. Một đứa bé được định cư ở Hoa Kỳ sẽ phát triển và hội nhập như thế nào?Xã hội mới, hoàn cảnh mới tạo cho em những điều kiện sinh hoạt ra sao. Cha mẹ sẽ khuyến khich giúp đỡ em như thế nào? Đó là nội dung chuyện kể. Mong tác giả tiếp tục viết và vui lòng bổ túc sơ lược tiểu sử cùng địa chỉ liên lạc.
Tác giả sinh năm 1957, cư dân Santa Ana, công việc: làm nail. Tham gia viết về nước Mỹ từ 2011, với bút hiệu Hữu Duyên Nguyễn và bài "Cám Ơn Bố", bà đã nhận giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2012. Sau đây là bài viết mới nhất của bà.
Tác giả sinh năm 1950, đến Mỹ năm 1994 diện tị nạn chính trị theo chồng, hiện sống ở Bắc Cali. Tốt nghiệp đại học ngành Early Childhood Education (giáo dục nhi đồng) tại Chapman University
Nguyễn Trần Diệu Hương là một trong những tác giả Viết Về Nước Mỹ kỳ cựu, được bạn đọc quí mến. Tham dự từ năm đầu, với nhiều bài viết đặc biệt, cô đã nhận giải Danh Dự năm 2001, và sau đó là giải vinh danh tác giả năm 2005 với bài viết "Còn Đó Ngậm Ngùi."
Tác giả đã nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ. Ông là cư dân Lacey, Washington State, tốt nghiệp MA, ngành giáo dục, từng trong ban giảng huấn tại trường dạy người da đỏ và giảng viên tại Đại học cộng đồng SPSCC, Olympia, WA.
Tác giả dự Viết Về Nước Mỹ từ năm 2000, từng nhận giải bán kết và giải Việt Bút, hiện là thành viên Ban Tuyển Chọn Giải Thưởng Việt Báo. Tác phẩm đã xuất bản: “Chuyện Miền Thôn Dã.” Bài viết mới nhất của ông kể về tiệc họp mặt của bà con Kinh 5 tại Quân Cam năm nay (hình bên).
Với bài viết “Lời Cám Ơn Của Mẹ Tôi”, kể chuyện bà Mẹ 90 tuổi thi đậu Quốc Tịch Mỹ, Nguyên Phương đã nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ 2007. Tại Việt Nam trước 1975, bà là một dược sĩ. Vượt biển, định cư tại Mỹ từ 1982, bà làm việc trong một cơ quan chính phủ tại Virginia. Sau khi về hưu, Nguyên Phương hiện là cư dân vùng Little Saigon. Bài viết sau đây kể về niềm vui an cư trong một mobile home park tại vùng thủ đô Việt tị nạn.
Tác giả đã nhận giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ năm thứ mười, 2010. Ông là một Linh mục dòng truyền giáo Ngôi Lời thuộc tỉnh dòng Chicago, đang ở Alice Springs, Northern Territory, lo cho thổ dân vùng sa mạc đất đỏ Úc Châu, nơi những ngày này đang là mùa nắng lửa.