Hôm nay,  

Chú Mường

10/01/201300:00:00(Xem: 754623)
viet-ve-nuoc-my_190x135Tác giả là một nhà báo, từng trong nhóm chủ biên một số tạp chí, tuần báo trên Dallas, Texas. Sau đây là bài viết Phan mới góp.

Đã mấy buổi chiều, tôi đưa chú Mường đi tìm chỗ ở. Người ta cần một nơi để về, lớn là quê hương thì chú đã mất; nhỏ là một chỗ ngả lưng khi chim về tổ, con người còn cần thêm một bếp lửa gia đình trong cõi u minh, vậy mà cái gì chú cũng không có. Người lính cũ còn bương bả đi tìm một chỗ ở cho vợ chồng già trên xứ người, cứ như cố tình vạch mặt con cháu. Tôi ngại lắm, biết rõ sinh hoạt của gia đình mình không quen có người lạ trong nhà, nên bao năm qua cứ để phòng trống mà không cho ai “share” phòng là vậy. Nhưng đã đến nước này thì cóc đành mở miệng với vợ, “anh muốn nói chú thím về nhà mình ở tạm một thời gian, rồi tính sau…”

Biết vợ con mình quý chú thím lắm nên mới dám nói, nhưng lại phải tánh chú gàn, như người đã ăn cơm lính thì cả đời quý tình trọng nghĩa, còn chuyện phải nhờ vả bất cứ ai cũng lấy làm khó chịu. Chú thím thương con cháu là một chuyện, nhưng bàn đến chuyện ông bà về ở chung với gia đình tôi thì lại thiếu tự nhiên.

Hết cách, tôi đưa chú đi tìm chỗ ở, còn buồn hơn đưa chú về nơi gió cát; bởi đời người ta trước sau cũng chỉ là ở trọ trần gian, ở nán thêm buồn. Nhất là những buổi chiều lơ thơ tóc trắng, chú ngồi căng mắt dò tìm những địa chỉ cho thuê phòng trên tờ báo nhàu nát; cái kính lão gục đầu trước thời đại không còn ai kính lão nữa.

Chiều về treo đèn đường, gió mưa lất phất, đêm xuống quặn lòng, hai chú cháu loanh quanh đi tìm địa chỉ trên những tờ báo mà chú đã đánh dấu. Tôi chẳng thấy đâu là nhà-theo cái nghĩa gia đình, đâu cũng chỉ là một căn phòng lạnh lẽo cho thuê. Nhà cho “share” thường giống nhau ở điểm thiếu tình gia đình. Có nơi chúng tôi đến, tiếng nói cười trong nhà rôm rả, nhưng cái không khí đông người dưng mà không thân, làm cho người ta thêm cô đơn. Không biết tôi có quá nhạy cảm hay không, nhưng khi ngồi chung bàn với năm, ba người cùng share phòng, mọi người vẫn tử tế với nhau vì cùng hoàn cảnh, nhưng khoảng cách không thể nào gần gũi được cũng chính vì cái hoàn cảnh đưa đẩy nhau tới chung một nóc nhà chứ không phải tình máu mủ, hay ít nhất cũng là tình cảm; lòng ngưỡng mộ nhau mà thành quan hệ. Tôi bắt gặp điều đó trong ánh mắt những người đi share phòng-buồn rười rượi…

Tôi đã đi xem chỗ ở với chú mấy buổi chiều vì chú Mường già khụ, mắt mũi kém, không rành đường. Phần chú cũng không quen nói chuyện giá cả, lại sĩ diện nên không muốn nhiều người biết chú thím phải đi thuê phòng để ở. Chú thím giữ chuyện kín bưng, nhưng lòng tôi lại nghĩ ngợi nhiều về tình cảm gia đình có thật sự còn không trong đời sống hôm nay? Không hữu sự không thấy sự vô giá của tình máu mủ; Dường như tôi sợ một ngày nào, những người thân rời xa mình, cuộc sống không làm khó bằng tình cảm bị tổn thương. Tôi càng nghĩ càng thương chú vì hai chú cháu tôi ít nói nhưng hiểu nhau nên mới thân tình.

Tôi lại nghĩ về người thân của chú, nhưng không tiện hỏi vì tôi không thích hỏi ai những câu khó trả lời. Hai chú cháu cứ đi chán thì lại về nhà tôi, hay quán xá bên đường, có ngồi uống cốc bia, ăn chút bữa tối, cũng chẳng ngon lành gì khi trong lòng cứ rối bời sự tuyệt vọng; một giai đoạn lòng người tuyệt vọng với nước mất nhà tan đã xa; tiếp đến là người lính miền nam như chú tuyệt vọng trong nhà tù nhỏ; gia đình, vợ con tuyệt vọng trong nhà tù lớn khi cả nước là một nhà tù vĩ đại. Rồi người vượt biển, vượt biên tuyệt vọng vì không tìm được con đường sống. Khi sinh lộ hé ra bằng ý chí và sự cần mẫn của người Việt thì tuyệt vọng không mất đi mà biến thành vô vọng khi những giá trị văn hoá truyền thống biến thái trên đất tạm dung. Cái giá của tự do lầm tưởng làm xáo trộn văn hoá đông tây...

Buồn nhất là chiều hôm, cả thím cũng đi để quyết định thuê căn phòng mà chú đã xem qua, ưng ý, đã về bàn với thím. Nhìn người thím ốm đau bệnh hoạn còn lặn lội đi thuê một chỗ nằm. sao không phải là một thước-hai thước cho xong một phận người; có phải đỡ tủi thân người đi; đỡ đau lòng kẻ ở. -Ngày mai, con cái của chú thím hay tin quỹ thời gian của cha hay mẹ đã hết. Những người con đang làm việc trong hãng xưởng hay đang vui chơi với con của họ có chạnh lòng vĩnh biệt người cha đã giã từ gác trọ, cuối đời sương gió lẻ loi. Người cha bao năm áo lính bấy năm áo tù, rồi dãi nắng dầm mưa để mưu sinh cho gia đình trong ngục tù bao la khi được thả ra khỏi nhà tù cải tạo. Khi đã lục tuần còn vì tương lai con cháu nên phải bỏ xứ ra đi, hư-thực mấy người đi đúng nghĩa là tỵ nạn chính trị; chỉ biết chú phải bỏ lại cơ hội được chết trên quê hương, vui sướng gì ra đi xuất ngoại khi đã da mồi tóc bạc…

Rồi người mẹ, không lẽ thím có lỗi khi sinh ra những người con? Chỉ biết chắc là thím không bỏ đói con cái; thậm chí nghèo hèn chồng đi tù tội thì thím cũng vẫn cho con đi học. Nhưng nay vì sao chú thím không thể sống chung với con cái? Dòng đời không trả ơn cưu mang; một đoạn đời nuôi con khôn lớn thường được xem như trả nợ cha mẹ đã sinh ra và cưu mang mình. Nước chảy xuôi; lá về cội là vậy. Chuyện đền ơn đáp nghĩa sinh thành, phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già như chuyện duyên phận; phước con cháu của mỗi người như phần ơn trên ban không đều bao giờ. Bởi người trẻ có nỗi khổ tâm khi không làm được những ước muốn cho cha mẹ; người già có nỗi khổ lụy khi không chấp nhận được lối sống, cách sống của người trẻ, tạo nên những xung đột trong gia đình di dân là hình ảnh nơi đâu cũng thấy, chả riêng gì một nhà.

Nhưng phần thiệt thòi cho người lính cũ cứ đeo bám những người chú đã lao đao lận đận cả đời. Khi trẻ thì ngập ngụa chiến tranh, tuổi đời đẹp nhất trong đời người thì chìm đắm trong khói lửa, hận thù của cuộc nội chiến đã xa; khi hoà bình thì tù đày cho thoả sự ngu xuẩn của kẻ thắng; rồi bươn trải trên quê hương nghiệt ngã để sống còn; khi nhìn lại tuổi đời đã xanh rêu thì lại thêm một lần bỏ xứ ra đi vì tương lai con cháu. Bươn bả trên xứ người tối mặt đến nhắm mắt xuôi tay, hết một đời người sinh ra cùng nghịch cảnh là thân phận người lính Việt Nam Cộng Hoà. Nếu con cháu hiểu được để chầp nhận cha mẹ lính cũ thì đời sống bớt muộn phiền hơn những khó khăn đời sống ở hải ngoại. Nhưng bản chất của đời sống là nghiệt ngã, lòng người là ích kỷ. Sự nhỏ nhen của lòng người, lòng vị kỷ đã giết chết người thím trong uất ức, giận hờn, không lâu sau khi chú thím dọn ra ở riêng nơi nhà trọ.

Thím đi khá đột ngột, bất ngờ, trong thương tiếc của người quen; nhưng kẻ biết vì sao vẫn lặng thinh - đó lại chính là con cái của chú thím. Còn nỗi đau nào cay đắng hơn trong lòng người lính già vẫn đi về gác trọ từ hôm đưa vợ về bên kia thế giới.

Sáng nay trong căn phòng vắng lặng, tôi ngồi soạn lại mớ sách báo trên kệ, mớ hình ảnh trong computer đã hết sức chứa, phải bỏ bớt,… nhìn lại hình ảnh tang lễ của thím, tôi thấy chú vẫn lặng lẽ đậu xe, xách túi thức ăn sẵn mua ngoài hàng quán, tra chìa khoá vào cửa căn gác trọ, bước vào căn phòng đã vĩnh viễn không còn thím chờ đợi. Chú bày thức ăn ra, thắp nén hương mời người bạn đời đã yêu thương lính trận, nuôi dạy con cái cho chú, nuôi tù cải tạo khi chú gãy súng tháng tư… lòng dạ nào chú ăn nổi nữa, nên chỉ uống ly vang, -ly nào giải thoát người lính già, khi cảnh sát báo tin, “cha của ông (bà) đã qua đời tối hôm qua, hôm kia, nơi gác trọ…” Cuộc sống của những người con vẫn tiếp diễn sau vài ngày bận rộn, phải nghỉ việc vì tang lễ.

Đời người sao buồn quá, nhất là những người lính cũ, cô đơn tới hơi thở cuối cùng.

Có lẽ nên để chú đọc khi chú chưa uống ly cuối cùng, ít nhất cũng tránh được lầm lỡ xưa cũ là sống không cho ăn chết làm văn tế ruồi; đời nay, cha mẹ còn không lo, hồi thẳng cẳng thì lục tìm bảo hiểm nhân thọ để ở đâu?

Phan

Ý kiến bạn đọc
19/01/201303:05:25
Khách
Người có lòng như PHAN nhìn thấy những chú Mường cô đơn trên nước Mỹ rồi ray rứt xót xa;thế cũng hay vì ngối đây mà nghĩ dến muôn vàn những chú Mường khác cũng sống thầm lặng quạnh hiu mà còn đói cơm rách áo ngay chính trên quê hương của mình thì còn thảm thiết đến đâu nữa!

Kiếp nhân sinh phù thế là vậy thôi ...Nếu mình có đức tin ,mình sẽ thấy được phần nào nguồn an ủi...thế thôi !

12/01/201318:06:42
Khách
Theo tui nghĩ chúng ta phải cần tính mình, đừng hy vọng đầu tư vào ai cả, như con mèo đây, sống như diễn viên Hongcong, chỉ biết lo cho mình ngon lành thôi hehe, tự túc độc lập là mình thương mình đó.
12/01/201307:08:24
Khách
Hay và cảm động
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 58,743,787
Tác giả sinh năm 1940, cựu sĩ quan VNCH, khoá 12 SVSQ Thủ Đức, cựu tù chính trị, đến Mỹ năm 1991 theo diện H.O. 9, hiện định cư tại Greenville, South Carolina, tham dự Viết Về nước Mỹ từ 2002. Tác phẩm đã xuất bản: Hành Trình Về Phương Đông. Sau đây là bài viết mới của ông.
Tác giả là một cựu sĩ quan CSQG/VNCH, tù “cải tạo” gần 7 năm, định cư tại Nam California từ năm 1991 theo diện HO5. Cựu nhân viên Material Specialist (công ty ALCOA) đã nghỉ hưu năm 2012. Sau đây là bài viết của ông.
Tác giả tên thật Lý Tuyết Mai, cư dân Pomona, CA. Việc làm: Nhân Viên Bộ Xã Hội. Đã nhận giải Vinh Danh Tác Phẩm, Viết về nước Mỹ 2009 với bài “Con Bé”, chuyện kể về chính sách của Bộ Xã Hội Mỹ đối với trường hợp một cô bé gốc Việt 16 tuổi mang bầu. Sau đây là bài viết mới của bà.
Tác giả tham dự viết về nước Mỹ từ 2001. "Tôi qua Mỹ năm 90, ở San Diego 2 năm và move qua quận Cam ở cho đến giờ," ông kể. Sau 8 năm lặng lẽ, Vĩnh Hầu góp thêm nhiều bài mới cho viết về nước Mỹ năm thứ mười và nhận giải danh dự. Mới đây, tác giả lại move từ miền Tây sang miền Đông. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Tác giả vượt biển đến Mỹ năm 1983, khi đúng 18 tuổi. Sau 30 năm định cư, bài viết về nước Mỹ đầu tiên của ông là một bài viết vui, đáng đọc. Phần minh hoạ được tác giả kèm theo bằng nhiều hình ảnh sống động, nhưng vì lấy từ mạng internet nên không tiện đăng lại.
Tác giả sinh năm 1939, hiện là cư dân Houston, Texas, tham dự Viết Về Nước Mỹ từ 2009 và đã góp nhiều bài viết đặc biệt. Trước 1975, ông là sĩ quan QLVNCH. Bị băt tù binh ngày 16/04/1975 tại mặt trận Phan-rang.Ra tù 1984. Vượt biên 1986.
Tác giả định cư tại Mỹ từ 1992, hiện là cư dân Cherry Hill, tiểu bang New Jersy. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của Song Lam là một tự sự, “Tháng Ba, Trời Đất Vào Xuân”. Bài thứ hai của bà là lá thư chia sẻ chuyện chồng con, dâu rể với một tác giả Viết Về Nước Mỹ:
Đúng 40 năm trước, 29 tháng Ba 1973, là ngày toàn bộ quân Mỹ rút khỏi Việt Nam theo hiệp định đình chiến Paris. Nhân dịp này, bài viết về nước Mỹ hôm nay là chuyện về một cựu chiến binh Mỹ còn nặng lòng với mảnh đất từng là chiến trường xưa. Tác giả bài viết, trước Tháng Tư 1975, còn là học trò, từng cộng tác với tuần báo Tuổi Ngọc. Mong Tôn-Nữ Thu Dung sẽ tiếp tục viết thêm.
Tác giả tên thật là Nguyễn văn Hoa, sinh năm 1947 tại Quảng Bình, Việt Nam. Tốt nghiệp kỹ sư điện, học cao học và soạn luận án tiến sĩ kỹ sư (1970-75). Từ 1970 đến 1975 dạy đại học kỹ thuật tại Sài gòn. Năm 1975 định cư tại Hoa Kỳ, làm việc cho công ty tiện ích ở North Dakota cho đến năm 2012 thì về hưu. Sau đây là bài viết về nước Mỹ đầu tiên của ông.
Tác giả nguyên là một sĩ quan hải quân VNCH, một nhà thơ quân đội. Sau tháng Tư 1975, ơng là người tù chính trị, định cư tại Mỹ theo diện H.O., hiện là cư dân San Diego. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ những năm đầu tiên, Phạm Hồng Ân đã nhận giải danh dự 2012. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Nhạc sĩ Cung Tiến