Hôm nay,  

Điệp Khúc Tháng Tư

07/05/201900:00:00(Xem: 83774)
Tác giả: Song Lam
Bài số  5682-20-31489-vb3050719
 
Tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Bà định cư tại Mỹ từ 26 tháng Ba 1992, hiện là cư dân Cherry Hill, New Jersey. Sau đây, thêm một bài viết mới, với lời ghi của tác giả:

Thương kính viết tặng để tưởng nhớ Anh Tư - Cố Đại úy Pháo đội trưởng Trương Văn C., Tiểu đoàn 183, Sư đoàn 18 Pháo Binh.

***

I.

Như bừng tỉnh sau giấc ngủ dài năm, sáu tháng mùa Đông, hoa lá trở mình nẩy lộc, đâm chồi. Mùa Xuân. Và tháng Tư lại về với trăm ngàn miên man nỗi nhớ.

Đầu tháng này, nhạc kịch Broadway cho trình chiếu lại vở “Miss Saigon” ở Philadelphia -vở kịch này đã có từ ba mươi năm trước, trình chiếu liên tục hàng tháng trời ở New York City-  Đứa con gái lớn của chúng tôi gọi ba nó, và hỏi:

-Ba má muốn đi xem kịch “Miss Saigon” không, để con mua thêm vé?

Dĩ nhiên là chúng tôi từ chối lời mời của con. Tôi nói với lòng mình: “Chừng nào có Miss Chợ Lớn thì coi, chứ Miss Saigon đã cũ mèm, chán lắm!”

“Miss Saigon” có thể là tôi, là chúng ta. Chúng ta vừa là diễn viên, vừa là nhân chứng. Lớp trẻ cần đi xem để hiểu thêm giai đoạn máu lửa mà cha mẹ, ông bà mình đã hứng chịu, nhục nhằn. Cảnh tượng rối ren, người người trốn chạy cái chết, trốn chạy cái bóng tối vĩnh-viễn ụp xuống đời mình. Chạy mau. Chạy mau. Leo lên. Leo lên. Trực thăng vận bốc người di tản, lù lù trên sân thượng Tòa Đại sứ Mỹ ở đại lộ Thống Nhất vẫn còn ù – ù trong tâm trí tôi, cả máu và nước mắt chan hòa trên mặt.

Nhiều lần, tôi đã dặn lòng thôi đừng nhớ nhung gì nữa cho một dĩ vãng đau thương đã xa, vết thương đau không thể nào hàn gắn. Nhưng càng muốn quên, lòng lại càng lồng lộng nỗi buồn, nỗi nhớ!

Phải, bốn mươi bốn năm rồi đó không? Gần nửa thế kỷ đau thương khi tôi chỉ là cô giáo trẻ hai mươi sáu tuổi đời vừa lập gia đình với tương lai rộng mở, vô vàn hạnh phúc. Nhưng, cơn địa chấn úp chụp xuống miền Nam Việt Nam với hàng ngàn cái chết tức tưởi, đau thương của đồng bào, bè bạn thân yêu.

Mà thôi, tôi sẽ không nói gì đến nỗi cơ cực của đời mình, vì đâu phải chỉ riêng tôi?

Tôi biết mình là người có ơn phước hơn nhiều mảnh đời tăm tối đau khổ trong chiến tranh tàn khốc, vì tôi may mắn được sinh ra, lớn lên ở Saigon. Người Saigon chỉ cảm nhận được chiến tranh khi đêm đêm nghe tiếng đại bác từ xa vọng lại? Và người Saigon còn hăm hở tìm vải dù của từ những trái sáng hỏa châu? Sai. Saigon vẫn nhận biết chiến tranh đang xãy ra khốc liệt với “Mùa Hè Đỏ Lửa” của Nhà văn Đại úy Nhảy dù Phan Nhật Nam, vẫn biết những trận chiến đẫm máu ở Bình Long, An Lộc, Quảng Trị, Pleime… Nhưng Saigon vẫn bình yên. Năm 1968, cuộc thảm sát ở Huế với hàng vạn đồng bào bị chôn sống tập thể, chúng tôi vẫn còn được bình yên trong giảng đường đại học, dù Saigon cũng bị tấn công, nhưng cộng quân đã bị đánh bại nhanh chóng. Đó là phần thưởng lớn cho người Saigon, trong đó có người viết.

Từ tháng 3/1975, miền Trung lần lượt thất thủ. Và cuộc di tản như vết dầu loang chảy dài từ Buôn Mê Thuộc đến Long Khánh, trước khi Bắc quân ủi sập cánh cổng sắt Dinh Độc Lập Saigon. Ván bài chưa đánh đã thua vì “Ván bài lật ngữa” như quý bạn đọc đã biết vì Mỹ rút quân, và cắt viện trợ cho miền Nam từ 1973, sách lược của Tổng Thống Nixon. Liên tỉnh lộ 7B, máu đã chảy thành sông, thây người chất thành núi trên đường theo chân quân đội Việt Nam Cộng Hòa lánh nạn kéo về Saigon, chỗ dựa của trận chiến hơn mười năm khốc liệt…

Tháng Tư gợi nhớ âm thầm trong tôi về hình ảnh người lính Việt Nam Cộng Hòa ngỡ ngàng buông súng, để trong phút chốc phải thúc thủ ngậm ngùi trở thành người thua trận. Nỗi đau đó vẫn còn đây, hiển hiện trong từng lằn gân, thớ  thịt của người Việt miền Nam. Hận thù nào đã giết nhau không tiếc, không thương khi chúng ta cùng một tiếng nói, một giống nòi? Chủ thuyết nào dựng lên sự cướp đoạt trắng trợn, đạp đầu cưỡi cổ nhau mà sống? Thứ văn hóa nào đang ồn ào bên kia bờ đại dương giành giựt quyền lợi, áo cơm?

Tôi băn khoăn, và cũng tự trách mình. Bao nhiêu tinh hoa của trí thức Saigon (mà có lúc báo chí lên án là trí thức tea-room) phải câm, phải nín, phải chịu khổ ải lao tù hàng chục năm. Bỗng nhiên chúng ta trở thành tội đồ, không ít người phải bỏ thân nơi rừng thiêng, nước độc!

Cuộc sống vẫn trôi. Người lính trẻ từ bảy mươi lăm bây giờ hom-hem tuổi già, còn quê quán nào cho một lần về thăm lại cố hương? Còn quê đâu nữa mà về? Saigon hầu như đã không còn của chúng ta, Saigon lạ lẫm từ chân tơ kẽ tóc!

Ôi tháng Tư! hãy qua mau đi, những đêm trằn trọc khi quá khứ lãng đãng hiện về bầm gan tím ruột.

II.

Chúng ta còn lại gì sau bốn mươi bốn năm mất miền Nam?

“Câu hỏi vây quanh một kiếp người” (Thơ Vũ Hoàng Chương), và còn thấy rõ mình trong “Phận người, vận nước” (Phan Nhật Nam). Người lính viết văn đó đã nói hết nỗi bi-hận ngàn đời không phai của người miền Nam, đặc biệt là người lính Việt Nam Cộng Hòa.

Người lính trận năm xưa bây giờ đã già, đã vượt qua số tuổi “cổ lai hy” âm thầm tiếc thương cho tháng ngày rộng cánh đại bàng.

Dù sao, khi tuổi già xế bóng họ vẫn có đôi lúc an vui bất chợt trong đời, khi cháu con đã thành đạt, xứng đáng là hậu duệ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ngày xưa. Các cháu đã làm nên “Mùa Xuân Việt Nam” ở hải ngoại này mà nhiều lần chúng ta ca ngợi. Chúng ta đã may mắn vượt thoát địa ngục trần gian, còn những người ở lại bây giờ họ đang làm gì, đời sống của họ ra sao?

Đó là câu hỏi thiết thực, xót xa của chúng ta. Họ đã nằm lại trên quê hương ở những địa danh bi hùng : Chalie, Bình Giã, An Lộc, Khe Sanh…Chúng ta mãi còn nợ họ một ân tình máu xương không bao giờ trả hết. Bên cạnh đó còn biết bao anh em Thương phế binh sống lây lất tủi hờn trong cơm áo nhục nhằn trãi dài từ Trung đến Nam phần. Chúng ta đã giúp được gì cho họ? Sự đền bù nào xứng đáng với sự hy sinh, thương tật của họ đây?

Người viết xin được nhắc đến một vị Thương binh tận cùng nỗi đau trong cuộc chiến: đó là Thiếu úy Phan Thế Duyệt. Anh Duyệt được truyền thông San Jose California phỏng vấn, và gửi link trong You Tube mà tôi đã lưu lại trong e-mail của mình, và đọc rất nhiều lần. Lần nào cũng đau xót âm thầm, cũng có ý định tìm thăm anh dù biết không dễ dàng chút nào khi trở lại Việt nam.

Anh Duyệt là sinh viên sĩ quan của Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt , vào trường 10/12/1968, và tốt nghiệp 15/12/1972. Nhưng định mệnh nào đã khiến anh giã từ vũ khí đúng vào buổi chiều 30/9/1973, nghĩa  là chỉ chín tháng là lính trận Nhảy dù với chức danh Đại đội trưởng. Một viên đạn AK oan nghiệt của địch quân ghim đúng vào cột sống của anh, lại là AK 47. Chiều hôm ấy, anh được đưa về Quân y viện Phan Thanh Giản - Cần Thơ.

Viên đạn định mệnh đó đã khiến anh liệt nửa người, và từ sau 1975 anh bị đẩy ra khỏi Quân y viện, về lại nhà cha mẹ, nơi một quận lỵ nhỏ heo hút ở Tây Ninh gần biên giới Campuchia.

Chương trình “Người Chiến Sĩ Cộng Hòa” do Trần Quang Duật phụ trách của SBTN-Washington D.C đã nhiều lần nhắc đến anh.

Từ lúc bị nạn, anh Duyệt sống trong đau khổ, sống trong nỗi chết từng ngày, vì cả hai chân anh bị cưa, chỉ nằm sấp, nằm ngữa trên giường đơn độc, một mình. Trong thư viết cho bác sĩ L.H ở S.J anh có nói về mình. Anh nói rằng ngày tháng trôi qua miên man, anh chỉ nhìn trời, nhìn mây qua cửa sổ, cả ngày xem tivi, hết đài này đến đài khác…đến lúc mệt là lăn ra ngủ! Ban đầu còn có cha mẹ, bạn bè săn sóc, sau này cha mẹ quá vãng, bạn bè thưa dần, anh sống một mình một thân trong căn nhà nhỏ quạnh hiu. Ban Xã hội khóa 25 cũng ân cần giúp đỡ, và các hội đoàn, các đài truyền thông ở Mỹ, các binh chủng bạn cũng ghé thăm. Nhưng không là tất cả. Làm sao có được điều kỳ diệu gì khỏa lấp được nỗi đau khổ tột cùng của anh đây?

Và được biết ngày 13/10/2018, anh Duyệt đã về với Chúa sau bốn mươi lăm năm vật vã với thương tật. Được tin, tim tôi thắt lại, nhưng cũng thầm mừng là anh đã thoát kiếp đọa đày. Anh Duyệt ơi, chúng tôi ở đây, dù không là bạn anh, vẫn xót đau cho một định mệnh nghiệt ngã rơi đúng vào cuộc đời anh khi anh còn quá trẻ. Ở một thế giới nào khác, xin chúc anh mãi được an vui!

“Hải ngoại không quên Tình Chiến Sĩ. Đồng hương mãi nhớ Nghĩa Thương Binh”

Đó là tâm niệm của Chương trình “Cám Ơn Anh” được tổ chức hàng năm tại Mỹ, khi thì ở Bắc Cali San Jose, khi thì ở Little Saigon Nam Cali. Đây là một sự kiện lớn cho việc đền ơn đáp nghĩa của đồng hương Việt nam yểm trợ cho Thương phế binh còn lại ở quê nhà do Bà Trung tá Nguyễn Thị Hạnh Nhơn làm Hội trưởng. Nhưng rất tiếc, bà Hạnh Nhơn đã qua đời vì tuổi cao, để lại bao nhiêu tiếc nuối cho đông đảo Thương phế binh và đồng hương hải ngoại. Vì thế, năm ngoái chương trình này bị gián đoạn một năm để ổn định lại tổ chức.

Cũng năm ngoái, chúng tôi có duyên may gặp lại Biệt đội Trưởng Biệt đội Thiên Nga Nguyễn Thị Thanh Thủy ở Nam Cali.

Giây phút hạnh ngộ tuyệt vời đó sau bốn mươi ba năm. Chúng tôi ai cũng rưng rưng nước mắt. Chị Thủy là Biệt đội Trưởng Biệt đội Thiên Nga, đeo lon Thiếu tá thuộc Tổng Nha Cảnh Sát, đã chịu đựng án lệnh mười ba năm tù tội. Bây giờ tuổi đã cao, chị vẫn tiếp tục con đường chị Hạnh Nhơn bỏ dở. Được biết, chị sẽ thay thế chị Hạnh Nhơn trong vai trò Hội Trưởng Hội H.O (Humanitarian Operation), sẽ chủ trì chương trình “Cám Ơn Anh” được tổ chức tại Nam Cali vào tháng Bảy tới đây. Hy vọng mọi người sẽ chung tay góp sức giúp anh em thương tật còn lại ở quê hương mình, như Hội đã từng thành công mười mấy năm nay.

Tình yêu thương đó, đối với người lính Việt Nam Cộng Hòa còn được biểu hiện thắm thiết trong tháng Tư năm nay khi anh hùng phi công Ó đen Lý Tống qua đời. Những ngày cuối cùng của anh Tống dù không có vợ con bên cạnh, nhưng anh có hàng trăm người bạn là đồng đội, đồng hương chăm sóc, vây quanh. Tang lễ của Anh được hàng ngàn đồng hương thăm viếng. Điều này nói được rằng dù xa quê hương gần nửa thế kỷ, tình đồng đội nghĩa đồng bào vẫn còn rực nóng trong trái tim chúng ta : hình ảnh người lính Việt nam Cộng Hòa vẫn mãi mãi kiêu hùng, là niềm hãnh diện cho người Việt nam xa xứ!

“…Dù rằng Anh ở đâu, Anh ở đâu vẫn yêu Anh hoài, vẫn yêu Anh hoài yêu suốt đời. Vì lời thề xưa nở trên môi, và một tình yêu đã lên ngôi, kỷ niệm đầu tiên vẫn sống trong tôi trên đường ta bước chung đôi…” (Nhạc sĩ Khánh Băng – Giờ Này Anh Ở Đâu?)

Tình cảm giữa Quân Dân Cán Chính của miền Nam Việt nam thời chiến trước 1975 thực sự là thế, đến nay..và mãi mãi vẫn là thế.

Tháng Tư nơi này với muôn hoa đua nở, nhưng trong tận cùng trái tim của mỗi người chúng ta vẫn ủ rũ đớn đau bốn mươi bốn năm qua. Bốn mươi bốn năm rồi, nhưng vết thương ấy vẫn chưa lành, niềm đau chưa dứt. Nhìn về quê hương đất nước thân yêu, mọi người đều không thể tránh được nỗi xót dạ, đau lòng!

Bây giờ là mùa Xuân của đất Trời – chúng ta nguyện cầu cho đất nước Việt Nam thân yêu sớm có Hòa bình thật sự, Tự do thật sự, Hạnh Phúc thật sự. Hỡi anh linh chiến sĩ, hỡi hồn thiêng núi sông, hãy phò trợ, giúp chúng tôi đủ sức lực gầy dựng nên một “Mùa Xuân Tự Do” cho Việt Nam.

Cherry Hill, NJ tháng 4/2019.

Song Lam

Ý kiến bạn đọc
08/05/201906:27:13
Khách
Bằng lời văn của một nhà giáo được đào tạo từ nền giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa, không pha trộn ngôn từ của quân xâm lược, tác giả nói lên tâm trạng của người con dân Việt Nam Cộng Hòa dịp tưởng niệm ngày Quốc Hận 30 tháng Tư.

Một bài viết hay và cảm động !
08/05/201906:13:08
Khách
Cám ơn tác giả đã thuật lại trường hợp của thiếu úy Phan Thế Duyệt. Dưới đây là một câu chuyện thương tâm tương tự mà tôi đọc được hối năm 2005:

Anh Nguyễn Văn Toàn, chuẩn uý sư đoàn 5 bộ binh. Năm 1974, khi anh năm 20 tuổi, trong một trận đánh ở Bình Dương, anh bị thương cột xương sống, tê liệt từ cổ trở xuống. Một viên đạn xuyên qua đốt sống cố khiến anh bị bất toại hoàn toàn, tay còn quờ quạng được, nhưng các ngón bị rút quặp lại, từ cột sống cổ xuống tận bàn chân hoàn toàn mất cảm giác, đi cầu, đi tiêu không tự chủ được nữa.

Anh Toàn nằm một chỗ suốt 32 năm trong tình trạng bị thương. Anh cư ngụ ở Ban mê Thuột. Căn nhà đơn sơ mộc mạc, vách bằng gỗ, mái lợp tôn. Anh ở trong căn phòng nhỏ hẹp ngột ngạt, nằm bất động trên chiếc giường sắt ọp ẹp, cũ kỹ với tấm nệm phai màu đã sờn rách nhiều chỗ. Anh không tự mình làm được một việc gì , ngoài việc có thể dùng tay để xúc cơm đưa vào miệng. Đúng 30 năm rồi, luôn nằm trong tư thế gập chân, không trăn trở được, người nhà để nằm tư thế nào thì nằm như thế đó, suốt ngày.

Trong suốt 30 năm trời, anh hoàn toàn lệ thuộc vào gia đình. Những năm đầu, cha mẹ già săn sóc cho anh, mọi sinh hoạt từ xê dịch đến vệ sinh , ăn uống. Năm 1996, cha anh mất. Mẹ anh lại tiếp tục chăm lo cho anh. Ba năm sau, mẹ anh cũng qua đời. Từ ngày ấy, anh chỉ còn biết bám víu theo gia đình người em út, lên định cư trên vùng kinh tế mới xa xôi khắc khổ.

Ba mươi năm nay anh Toàn chỉ nhìn ngắm được một chút màu xanh của lúa qua khe ván chỗ anh nằm…
08/05/201905:59:44
Khách
Song Lam thân mến,
Là một người lính thua trận trong cuộc chiến 75, tôi xin được nói lời đồng cảm với tác giả Song Lam về “Điệp Khúc Tháng Tư”, mà không phải mình tôi đâu, cả tập thể dân quân miền Nam, những người còn sống, chắc ai cũng phải nhỏ lệ khi đọc thấy bài viết này.
Cảm ơn Song Lam đã nhắc đến sự mất mát hy sinh của người bạn tôi, Phan thế Duyệt, cảm ơn Song Lam còn nhớ đến đồng bào mình khi di tản, đã bỏ mạng trước các họng súng đại bác trực xạ của người cộng sản, cũng như bị chìm sâu dưới lòng đại dương khi chạy trốn cộng sản.
Cái quá khứ này, bao hận thù này, làm sao chúng ta có thể quên được, phải không Song Lam?
Nhưng không lẽ, cứ tháng tư về, là chúng ta cùng nhau nhỏ lệ, cùng nhau nói những lời than oán, uất nghẹn, thậm chí có những nơi gào thét, biểu tình, rồi … thôi. Đã đến hơn bốn chục cái tháng tư rồi, chúng mình cũng cứ nhỏ lệ, cũng cứ than oán, điệp khúc than oán đó chính là “điệp khúc tháng tư” rồi, chứ còn gì nữa?
Bản thân tôi cũng không ngoại lệ, tôi cũng hát bốn mươi bốn lần bài “điệp khúc tháng tư” này vào những ngày tháng tư định mệnh hàng năm, và sau đó thì đôi khi cũng quên béng đi quê nhà Việt Nam đang quằn quại rên xiết dưới ách độc tài cộng sản.
Ở trong nước thì, Trấn Thành Hoài Linh Trường Giang đem bao điều nhảm nhí chiếm hết thời lượng truyền hình, đồng bào tôi làm sao mở mắt? Những người can đảm nói lên sự thật, đôi khi chỉ chống Trung Quốc hay chỉ nêu lên những bất công tham nhũng thì ở tù mọt gông.
Còn ở hải ngoại, tôi và những người lính già như tôi chắc chắn sẽ không làm được gì có thể thay đổi đất nước, và dường như khắp nơi ở hải ngoại này, những người già cũng như các lớp người trẻ tuổi, cũng sẽ không có, cũng như không thể tìm được ai, có thể làm được điều gì, để có thể thay đổi đất nước. Đó là một sự thật.
Người cộng sản đã dùng bạo lực để giữ vững chế độ, và dường như trước mắt là họ thành công. Tôi có đọc blogger Nguyễn Ngọc Già, ông cũng đã thấy điều này: “Xin đừng nhầm lẫn những biểu hiện dân sinh (phẫn nộ dân chủ) là những dấu hiệu ‘chuyển mình chính trị’, không! Chưa bao giờ có cả. Chưa bao giờ có sự nao núng của chế độ cộng sản tại Việt Nam!”
Nói điều này ra, tôi muốn trình bày cái suy nghĩ của tôi là điều mong ước của Song Lam ở cuối bài viết, nó hơi xa vời, chắc còn lâu lắm mới có thể thành sự thực,
Vậy thì, có lẽ nhưng mà cũng không lẽ, không lý nào, Song Lam, tôi và đồng bào tôi, cứ hát mãi “Điệp Khúc Tháng Tư” cho đến khi tàn cả hai thế hệ, hay sao?
NGƯỜI LÍNH GIÀ
07/05/201921:13:14
Khách
"...Tháng Tư nơi này với muôn hoa đua nở, nhưng trong tận cùng trái tim của mỗi người chúng ta vẫn ủ rũ đớn đau bốn mươi bốn năm qua. Bốn mươi bốn năm rồi, nhưng vết thương ấy vẫn chưa lành, niềm đau chưa dứt. Nhìn về quê hương đất nước thân yêu, mọi người đều không thể tránh được nỗi xót dạ, đau lòng..."
Cảm xúc của tác giả, cũng giống như cảm xúc của hầu hết các con dân, chiến sĩ VNCH miền Nam VN trong nước cũng như hải ngoại toàn thế giới mỗi độ tháng Tư trở về. Tôi thích đoạn văn bên trên, SL đã thay chúng ta nói lên tâm trạng đau dạ xót lòng của một tháng Tư 1975 nghiệt ngã, và một VN dưới ách độc tài CS sau đó, và đến nay. Một bài viết thật hay, giọng văn gợn buồn, trầm lắng. Cám ơn tác giả thật nhiều. Thanh Hoa - PA.
07/05/201920:01:10
Khách
Tiếng chào cao hơn mâm cổ. Lời khen sánh tựa bạc muôn.
Xin mượn hai câu tục ngữ trên để thân gửi đến người bạn chưa có dịp quen biết, -Jane MNT-, và lời cảm ơn chân thành về sự khen tặng chân tình của bạn khi nhận định bài viêt Điệp Khúc Tháng Tư. Lời khen ngợi ấy sẽ là niềm vui, sự khích lệ cho tác giả, đặc biệt là nó nói lên sự đồng cảm của bạn, và người viết. Lần nữa cảm ơn, và thân chúc bạn luôn được vui khỏe. SL.
07/05/201910:45:35
Khách
Song Lam là một trong những người viết mà tôi ngóng cổ chờ trông . Cảm ơn cô về bài tháng 4 tuyệt vời .
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 833,080,809
Tác giả đã nhận Giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2019. Là con của một sĩ quan tù cải tạo, ông đã góp 3 bài viết xúc động, kể lại việc một mình ra miền Bắc, đạp xe đi tìm cha tại trại tù Vĩnh Phú, vùng biên giới Việt-Hoa
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ năm 2019 và đã nhận giải Việt Bút Trùng Quang, dành cho bài viết góp phần phát triển văn hóa Việt tại hải ngoại.
Tác giả tên thật Trần Năng Khiếu. Trước 1975 là Công Chức Bộ Ngoại Giao VNCH. Đến Mỹ năm 1994 theo diện HO. Đã đi làm cho đến năm 2012.
Tác giả lần đầu tham dự Viết Về Nước Mỹ và đã nhận giải VVNM 2019. Bà tên thật là Ngô Phương Liên, học Trưng Vương thời trung học, vượt biển qua Mỹ năm 79
Tác giả lần đầu tham dự Viết Về Nước Mỹ và đã nhận giải VVNM 2019. Bà tên thật là Ngô Phương Liên, học Trưng Vương thời trung học, vượt biển qua Mỹ năm 79
Tác giả lần đầu tiết về nước Mỹ từ tháng 11, 2018, với bài “Tình người hoa nở”, tháng 12, “Mùa kỷ niệm” và “Chị em trung học Nữ Thành Nội.”
Tác giả là một Phật tử, pháp danh Tâm Tinh Cần, nhũ danh Quách Thị Lệ Hoa, đã nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ 2011, với loạt bài tự sự của một phụ nữ Việt thời chiến, kết hôn với một chàng hải quân Hoa Kỳ
Tác giả tên thật là Đặng Thống Nhất, một nhà giáo hồi hưu. Sau nhiều năm dạy Song Ngữ và ESL tại Khu Học Chính Minneapolis và Việt Ngữ tại Đại Học Minnesota.
Tác giả tên thật là Đặng Thống Nhất, một nhà giáo hồi hưu. Sau nhiều năm dạy Song Ngữ và ESL tại Khu Học Chính Minneapolis và Việt Ngữ tại Đại Học Minnesota.
Tác giả là nhà báo quen biết trong nhóm chủ biên một số tuần báo, tạp chí tại Dallas.