Hôm nay,  

Tháng Tư - Tưởng Niệm Thuyền Nhân

30/04/201700:00:00(Xem: 11312)

Tác giả: Gió Đồng Nội
Bài số 5107-18-30787-vb8043017

Gió Đồng Nội là bút hiệu của một tác giả đã góp nhiều bài đặc biệt và nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ ngay từ năm đầu tiên. Bà là một chuyên gia từng làm việc tại Trung Tâm Không Gian Kennedy ở Merrit Island, Florida, hiện đã hưu trí. Sau đây, thêm một bài viết mới.

* * *

blank
Tấm bia đá.(hình do tác giả cung cấp)

Tháng Ba, từ Pháp, Úc và Hoa Kỳ, nhóm 12 người chúng tôi, không thuộc bất cứ đoàn thể chính trị nào, chỉ là nhũng anh chị em văn, ca, nghệ sĩ, có cùng mục đích góp chút phần mình trong mục đích chung: đòi tự do, nhân quyền, dân chủ cho Việt Nam, cùng bay sang Úc với linh hồn của nhóm: nữ ca, nhạc sĩ Nguyệt Ánh.

Theo đúng chương trình đã định, sau khi hát tại hai nơi Melbourne và Sydney để gây quỹ giúp Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam có phương tiện trùng tu, tảo mộ thuyền nhân thì lên đường đi thăm nghĩa trang thuyền nhân nằm lại đảo Galang. Qua những chỉ dẫn từ nhà báo Lưu Dân và ông Trần Đông, Giám Đốc Văn Khố Thuyền Nhân, chúng tôi không gặp trở ngại gì khi tới nơi.

Đảo Galang nằm phía Nam, là một trong những quần đảo của Batam, Nam Dương (Indonesia); Nơi đã trở thành chốn tạm trú cho những người Việt vượt biển tìm tự do vào những năm 1979 đến 1996.

Dù với láng giềng Nam Dương, chính quyền Tân Gia Ba vẫn kiểm soát rất kỹ lưỡng những người ra, vào nước họ, cả bằng đường biển. Rời phi trường Singapore, sau khi trình sổ thông hành (Passport), chúng tôi lên tàu nhỏ đi sang Batam. Chiếc xe Van,14 chỗ ngồi, đón chúng tôi tại bến tàu, ghé vào phố để mua Nhang, Đèn cầy, Hoa, Bánh, Kẹo, Trái cây, trước khi vào trại. Thủa còn người tỵ nạn, nơi đây không có đường xe vào trại, phải đi bằng ghe, tàu.

Ngày nay, có lẽ vì nhìn thấy mối lợi thương mãi, chính quyền Nam Dương đã cho xây 6 cây cầu, nối các đảo nhỏ lại với nhau để du khách dễ dàng thăm viếng hơn. Nhà cửa, cao ốc đang xây lên rất nhiều, Batam đã trở thành nơi du lịch.

Chỉ hơn một giờ đồng hồ, xe đưa chúng tôi đến nghĩa trang Galang. Không còn nhà, không còn lều, hay bất cứ chứng tích gì chứng tỏ nơi đây đã từng có gần 200 ngàn người Việt Nam tỵ nạn Cộng Sản đặt chân đến, sống, và đi định cư. Không còn gì ngoài khu Nghĩa Trang, ngôi Chùa, đài Đức Mẹ và Bảo Tàng Viện Thuyền Nhân. Để mắt tìm kiếm tấm Bia Đá hoa cương do 150 thuyền nhân đã đi định cư ở nhiều nước trên thế giới Úc, Pháp, Mỹ, Canada, Áo, đã cùng về họp mặt tại trại tỵ nạn này vào tháng Ba, năm 2005, góp tay nhau dựng lên. Khắc trên tấm bia là những hàng chữ (mà tôi tạm chuyển ngữ): "Để tưởng nhớ hàng trăm ngàn thuyền nhân đã thảm tử trên đường vượt biển tìm tự do (1975-1996). Những người đã chết vì đói, khát, bị hãm hiếp, kiệt sức, hay vì nhiều lý do khác. Cầu cho linh hồn họ vui hưởng hạnh phúc cõi an bình. Sự hy sinh của họ sẽ không bao giờ bị quên lãng. Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại 2005".

blank
Nhà bảo tàng. (hình do tác giả cung cấp)

Mặt bên kia ghi: "Chân thành cám ơn Cao Uỷ Liên Hiệp Quốc Về Người Tỵ Nạn (UNHCR), hội Hồng Thập Tự, hội Trăng Lưỡi Liềm Đỏ Nam Dương và tất cả những cơ quan, tổ chức quốc tế, chính phủ và người dân Nam Dương cũng như những quốc gia đã chấp nhận cho người tỵ nạn định cư. Đồng thời xin cám ơn hàng ngàn người trong những công việc giúp đỡ người tỵ nạn. Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại 2005."

Tấm bia đá ngoài lời nói lên lý do thuyền nhân có mặt ở đây cùng lời tri ân sự giúp đỡ của nhiều người mà Cộng Sản Việt Nam xem đó là một bằng chứng cụ thể nhất chứng minh sự bạo tàn, dã man của họ.


Chỉ hai tháng sau khi được dựng lên, vì áp lực của Cộng Sản Việt Nam, chính quyền Nam Dương đã cho đục khoét tấm bia, bỏ mặc ngoài tai sự phản đối của đồng bào Việt ở hải ngoại. Tệ hơn thế, họ đã huỷ bỏ hết những gì dính líu đến hai chữ tỵ nạn. Luôn cả bệ, tấm bia này nay đã mất tăm tích.

Lối vào nghĩa trang chỉ là tấm bia xi-măng trắng, viền vàng, chữ đỏ đề "Nghĩa Trang Galang". Đến cây cột cũng bằng xi-măng cao, dựng ngay lối vào, trước đây sơn màu Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ cũng bị bắt buộc bôi thành màu đen với ba vạch trắng.

Mái nhà tôn chỉ có một vách ở phía sau, mới được sửa chữa lại để làm bàn thờ tạm với chỗ đặt lư, nhang, hoa, trái, cho người viếng mộ. Trại tỵ nạn chỉ còn có thế. Đơn sơ như 503 ngôi mộ của trên một ngàn thuyền nhân, mới được sơn lại cũng bằng màu trắng. Không phải chết mỗi người mỗi mồ. Có ngôi mộ chứa xác nguyên gia đình, khi ghe dạt vào bờ tất cả đã chết nhưng tay còn cột dính với nhau vào mạn thuyền. Có mộ thê thảm hơn, chôn nguyên cả tàu vì không biết liên hệ mỗi người....

Chúng tôi, sau khi cầu nguyện đã cùng nhau đi cắm nhang cho từng ngôi mộ hầu sưởi ấm phần nào linh hồn đồng bào đã thảm tử nơi đất lạ quê người. Những tấm bia ghi lại: Em bé sinh và chết cùng ngày. Vợ lập mộ chồng. Con dựng mộ cha. Người đi cùng tàu xây mộ bạn. Nhiều nấm mộ không tên.

Nắng gay gắt trên đầu, khói nhang cuồn cuộn bay lên, nước mắt chảy xuống. Chúng tôi vừa khóc vừa cầu nguyện. Cầu xin Phật, Chúa, Thánh, Thần, cho các linh hồn được yên nghỉ. Những đồng bào tôi, sinh không cùng nơi nhưng chết cùng chôn tại một chốn. Nghĩa trang Galang.

blank
Một khung ảnh thuyền nhân cũ. (hình do tác giả cung cấp)

Bước sang bên kia đường là chỗ hai chiếc thuyền được nhập trại sau cùng còn đây. Màu sơn xanh đậm mới tinh, số danh bộ của ghe vẫn còn. Xéo góc khác là xác chiếc ghe đã bị mối ăn, mọt đục, chỉ còn lại một nửa. Một ghe nữa, mục rã chỉ còn mỗi cái lườn nằm trơ trọi. Đi thêm một quãng ngắn. Ở một nơi gọi là Bảo Tàng Viện (không có chữ tỵ nạn; bên ngoài trông rất khang trang, bên trong chẳng có gì ngoài một số vật dụng của đồng bào tỵ nạn còn sót lại như một chiếc cối đá, những quyển sách cũ, vài chảo, nồi méo mó, dăm chén, dĩa, sứt, mẻ và nhiều hình ảnh, tranh vẽ, treo trên tường. Không kể thùng quyên góp tiền của du khách (để giữ gìn nơi đây?).

Một khoảng sân khác, chỗ có bảng đề "Catholic Church", chỉ là khu đất trống hoác. Ngôi Nhà Thờ đã bị phá huỷ? Tượng Đức Mẹ, cũng vừa được sơn lại, đứng trên đài cao, gần bên Thánh Giá ngay cạnh. Hai băng gỗ, chắc ngày xưa dùng làm ghế ngồi, đặt phía trước. Không mái che mưa, nắng. Mẹ cũng nghèo (vật chất) như người tỵ nạn.

Ngoài những khu vực đã phát quang, dọn cỏ, sửa sang dành cho du khách, nơi đây đã mọc đầy cây dại, cỏ hoang trở lại như lúc trước khi có người tỵ nạn.

Trại Tỵ Nạn Galang chỉ còn có thế.

Trên đường ra về, chúng tôi đi ngang thành phố. Giống như tất cả các nơi trên thế giới, phần lớn, người khá giả sống ở thành phố với nhiều tiện nghi. Cũng nhà hai, ba tầng lầu, xe hơi, xe gắn máy. Khác với thôn quê. Dân nghèo, nhà tranh, đường đất ngoằn nghèo, vẫn còn thấy cảnh người và trâu đang cày dưới ruộng. Hai bộ mặt giàu, nghèo thật khác biệt. Việt Nam khác gì? Đám lãnh đạo giàu có ăn trên ngồi chốc, người dân nghèo cùng khổ kiếm miếng ăn sống qua ngày.

Nỗi buồn mất nước đã hơn 40 năm không thể quên.

Tự an ủi mình, tôi nghĩ mình đã cố gắng làm những gì có thể.

Gió Đồng Nội

Ý kiến bạn đọc
08/05/201722:13:06
Khách
Bài này thuộc lọai lạc đề cho mục VVNM.

Thể lệ tham dự Viết Về Nước Mỹ ngay từ khởi đầu, năm 2000, có ghi rõ: "Mục tiêu của giải thưởng là cổ võ việc ghi lại những kinh nghiệm hội nhập của người Việt vào dòng sống nước Mỹ, càng nhiều chi tiết sống thực càng hay. Bài tham dự có thể là truyện ký, truyện ngắn, tạp bút... Người viết có thể gửi nhiều bài tham dự, hoàn toàn tự do chọn đề tài, miễn là liên quan tới nước Mỹ."

Đây là cái link: https://vvnm.vietbao.com/a239020/hop-mat-viet-ve-nuoc-my-16-thang-8-2015-20-tac-gia-se-nhan-giai-nam-thu-xvi
04/05/201719:31:21
Khách
Giặc Hồ "giải phóng" Miền Nam
Để đưa cả nước xuống hang chuột chù
Theo Nga tao bảo bay ngu
Theo Tầu tao bảo bay mù, điếc câm
Hiện nguyên hình lũ bất nhân
Thằng Hồ Chí Rận, tiên nhân nhà mày
Đả Cẩu Bổng
01/05/201714:42:48
Khách
Số nạn nhân đi tìm tự do nhưng bị chôn sống dưới lòng biển cả là khoảng 400,000 người. Như vậy là gấp gần 7 lần số lính Mỹ 58,220 nằm xuống trên chiến trường Việt nam. Và gấp gần 1.5 lần số quân nhân Việt Nam Cộng Hòa 224,000 tử trận trong cuộc chiến.

Con số to lớn này cho thấy người dân thà bị chết ngoài đại dương hơn là phải sống với bọn Ác quỷ Cộng sản hung tàn !
30/04/201720:23:38
Khách
Tưởng niệm ngày Quốc Hận 30 tháng Tư cũng cần phải nhắc nhớ lại những cái chết đau đớn, tuyệt vọng của hàng trăm ngàn đồng bào xấu số của chúng ta đã không may bỏ mạng ngoài Biển Đông vì gặp hải tặc Thái, Mã hoặc bị sóng gió vùi dập trên đường lánh nạn Quỷ dữ Cộng sản.

Những nỗ lực trùng tu, tảo mộ thuyền nhân của các cá nhân, hội đoàn rất đáng được đề cao và ngưỡng mộ. Cám ơn tác giả đã viết bài về Galang ngày nay.

Phủ Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc đưa ra con số từ 200,000- 400,000 đã bỏ mạng ngoài biển Đông.

Trong cuốn "Lược Sử Quân Lực Việt Cộng Hòa "- Đại Tá Trần Ngọc Thống, Thiếu Tá Hồ Đắc Huân và Lê Đình Thụy biên soạn- phỏng đoán con số nạn nhân xấu số là 450.000 người.

Ngoài ra, theo tôi nghĩ, còn phải nên kể đến hàng triệu triệu người trong và ngoài nước bị những chấn thương về tinh thần do mất mát người thân, họ hàng và bạn bè.

Nhà văn Dương thu Hương - Gia nhập Thanh Niên Xung Phong xâm nhập Miền Nam. Có hơn 15 tác phẩm, trong đó có 6 tác phẩm được dịch ra tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Đức - : “Cuộc chiến giải phóng miền Nam là cuộc chiến ngu xuẩn nhất trong lịch sử dân tộc”.

” So với tội đem bom đạn và thuốc khai quang của đế quốc Mỹ đổ xuống nước Việt Nam thì tội phá nát sơn hà Việt Nam của Hồ chí Minh còn nặng gấp ngàn lần”.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 844,294,753
Tác giả từng sống ở trại tỵ nạn PFAC Phi Luật Tân gần mười một năm. Ông tên thật Trần Phương Ngôn, hiện hành nghề Nail tại South Carolina và cũng đang theo học ở trường Trident Technical College. Với bài "Niềm Đau Ơi Ngủ Yên" viết về trại tị nạn Palawan-Philippines, Triều Phong đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Bút hiệu của tác giả là tên thật. Bà cho biết sinh ra và lớn lên ở thành phố Sài Gòn, ra trường Gia Long năm 1973. Vượt biển cuối năm 1982 đến Pulau Bibong và định cư đầu năm 1983, hiện đã nghỉ hưu và hiện sinh sống ở Menifee, Nam California.
Tháng Năm tại Âu Mỹ là mùa hoa poppi (anh túc). Ngày thứ Hai của tuần lễ cuối tháng Năm -28-5-2018- là lễ Chiến Sỹ Trận Vong. Và Memorial Day còn được gọi là Poppy Day. Tác giả Sáu Steve Brown, một cựu binh Mỹ thời chiến tranh VN, người viết văn tiếng Việt từng nhận giải văn hóa Trùng Quang trước đây đã có bài về hoa poppy trong bài thơ “In Flanders Fields”. Nhân Memorial sắp tới, xin mời đọc thêm một bài viết khác về hoa poppy bởi Phan. Tác giả là nhà báo trong nhóm chủ biên một tuần báo tại Dallas, đã góp bài từ nhiều năm, từng nhận giải Vinh Danh Tác Giả Viết Về Nước Mỹ. Ông cũng là tác giả Viết Về Nước Mỹ đầu tiên có nhiều bài đạt số lượng người đọc trên dưới một triệu.
Với bài “Hành Trình Văn Hóa Việt tại UC Irvine”, tác giả đã nhận Giải Việt bút Trùng Quang 2016. Ông tốt nghiệp cử nhân về Ngôn Ngữ Học tiếng Tây-Ban-Nha tại UC Irvine. Sau 5 năm rời trường để theo học tại UCLA, tốt nghiệp với hai bằng cao học và tiến sĩ về ngành Ngôn Ngữ Học các thứ tiếng gốc La-Tinh, ông trở lại trường cũ và trở thành người đầu tiên giảng dạy chương trình tiếng Việt, văn hoá Việt tại UC Irvine từ năm 2000 cho tới nay. Sau khi nhận giải Việt Bút Trùng Quang 2016, tác giả vẫn tiếp tục góp thêm bài viết về nước Mỹ.
Tác giả 58 tuổi, hiện sống tại Việt Nam. Bài về Tết Mậu Thân của bà là lời kể theo ký ức của cô bé 8 tuổi, dùng nhiều tiếng địa phương. Bạn đọc thấy từ ngữ lạ, xin xem phần ghi chú bổ túc.
Tác giả hiện là cư dân Arkansas, đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2017. Bà tên thật Trịnh Thị Đông, sinh năm 1951, nguyên quán Bình Dương. Nghề nghiệp: Giáo viên anh ngữ cấp 2. Với bút hiệu Dong Trinh, bà dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7, 2016, và luôn cho thấy sức viết mạnh mẽ và cách viết đơn giản mà chân thành, xúc động. Sau đây, là bài mới viết về đứa con phải rời mẹ từ lúc sơ sinh năm 1975, hơn 40 năm sau khi đã thành người Mỹ ở New York vẫn khắc khoải về người mẹ bất hạnh.
Tác giả sinh trưởng ở Bến Tre, du học Mỹ năm 1973, trở thành một chuyên gia phát triển quốc tế của USAID, hiện đã về hưu và an cư tại Orange County. Ông tham gia VVNM năm 2015, đã nhận giải Danh Dự năm 2016 và giải á khôi “Vinh Danh Tác Phẩm” năm 2017. Bài mới của ông nhân Ngày Lễ Mẹ kể về người Mẹ thân yêu ở quê hương.
Hôm nay, Chủ Nhật 13, Mother’s Day 2018, xin mời đọc bài viết đặc biệt dành cho Ngày Lễ Mẹ. Tác giả tên thật Trần Năng Khiếu. Trước 1975 là Công Chức Bộ Ngoại Giao VNCH. Đến Mỹ năm 1994 theo diện HO. Đã đi làm cho đến năm 2012. Hiện là công dân hưu trí tại Westminster. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 8/2015. Đã nhận giải đặc biệt 2016. Nhận giải danh dự VVNM 2017.
Chủ Nhật 13 tháng Năm là Ngày Của Mẹ tại nước Mỹ năm 2018. Mời đọc bài viết của Nguyễn Diệu Anh Trinh. Tác giả sinh năm 1959 tại Đà Nẵng, đến Mỹ năm 1994 diện HO cùng bố và các em, định cư tại tiểu bang Georgia. Hiện là nhân viên công ty in Scientific Games tại Atlanta, tiểu bang Georgia. Bà đã góp bài từ 2015, kể chuyện về người bố Hát Ô và nhận giải Viết Về Nước Mỹ.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ bằng cách viết lời giới thiệu và chuyển ngữ từ nguyên tác Anh ngữ bài của một người trẻ thuộc thế hệ thứ hai của người Việt tại Mỹ, Quinton Đặng, và ghi lại lời của người me, Bà Tôn Nữ Ngọc Quỳnh, nói với con trai.
Nhạc sĩ Cung Tiến