Hôm nay,  

New Orleans Du Ký

21/10/201600:00:00(Xem: 10103)

Tác giả: Bảo Trân
Bài số 4945-18-30645-vb5102016

Tác giả tên thật Lý Tuyết Mai, cư dân Pomona, CA. làm việc tại Bộ Xã Hội. Đến Mỹ khi còn tuổi học trò, cô thuộc "thế hệ gạch nối" của người Việt tại Mỹ. Với bài viết về chính sách của Bộ Xã Hội Mỹ đối với trường hợp một cô bé gốc Việt 16 tuổi mang bầu, Bảo Trân đã nhận giải Vinh Danh Tác Phẩm - thường gọi đùa là giải á hậu - Viết Về Nước Mỹ 2009. Bài du ký mới của tác giả có kể thêm chuyện ma và phù thủy độc đáo tại New Orleans.

* * *

blank
Cafe du Monde.

Đã hứa với Momo là tôi sẽ về thăm bà sau chuyến đi chơi Canada và miền Đông nước Mỹ, nên sau khi ghé thăm gia đình cậu Tường ở New York được mấy ngày là tôi và Thảo lại xếp quần áo vào vali lên đường đi New Orleans.

Chuyến bay từ Newark đi New Orleans đông không thể tưởng. Hành khách lũ lượt kéo lên phi cơ những cái vali xách tay nặng chịch, căng cứng, để chật hết những hộc chứa hành lý làm những người lên sau phải khó khăn lắm mới tìm ra chỗ trống. Lỗi này là cũng từ những hãng máy bay thôi, vì từ sau khi họ tăng thêm tiền phụ phí ký gởi hành lý thì hành khách đã chuyển đổi sang vác theo những cái “xách tay” nhỏ nặng chỉ thua những cái vali bình thường một chút.

Đang ngồi ngáp ngủ trong ghế chờ giờ máy bay cất cánh thì tôi bỗng nghe có tiếng cãi cọ ở phía sau. Ngoái lại nhìn tôi thấy một người hành khách đang đôi co với một anh chàng tiếp viên hàng không, vì anh ta đã ngăn cản không cho ông xào xáo đồ đạc của người khác để tìm chỗ nhét cái carry on trên hộc để hành lý ngay trên hàng ghế ngồi của ông. Tôi và những người khách ngồi gần đó im lặng theo dõi tình hình đang đến hồi quyết liệt vì chẳng ai chịu nhường ai. Chúng tôi e ngại không biết chuyện gì sẽ xảy ra. Cách đây không lâu tin tức đã loan tải chuyện một anh chàng tiếp viên của hãng hàng không Jet Blue cãi vã với khách hàng rồi trượt ra ngoài phi cơ theo máng thoát hiểm. Không chừng hôm nay Continental Airlines sẽ có thêm một hiện tượng “Steven Slater” khác xảy ra trên chuyến bay này?! Nhưng cuối cùng thì mọi việc trở lại êm thấm lúc anh chàng tiếp viên đó bỏ đi sau khi ông khách nhượng bộ quay xuống để hành lý ở một hộc trống khác cách đó vài ba hàng ghế.

Chúng tôi đến sân bay New Orleans vào lúc 1:35 chiều. Cơn gió nóng hừng hực của New Orleans đón chào chúng tôi khi vừa rời khỏi máy bay. Phi trường New Orleans vẫn cũ kỹ như ngày tôi về thăm Popo, không có gì thay đổi. Chuyến xe bus nhỏ của hãng Budget đón chúng tôi từ phi trường về văn phòng mướn xe cách đó chỉ vài ba miles. Lấy xe xong, về khách sạn tắm rửa là tôi nằm lăn quay ra ngủ vì cả đêm qua tôi đã không ngủ được trọn giấc. Đến khoảng 3:35 chiều thì Thảo nhận được điện thoại của chị Thuần, một người bạn Thụ Nhân*, báo tin là chị và anh Thịnh, chồng chị, đang trên đường đến khách sạn đón chúng tôi qua nhà anh chị chơi rồi đi ăn cơm tối.

Vì có nhìn qua hình trên diễn đàn nên chúng tôi nhận ra nhau ngay. Chị Thuần cũng thật hết lòng, chưa hề biết chúng tôi bao giờ, chỉ “chit chat” với Thảo nhau qua những mẩu email trong diễn đàn TNIC*, vừa nghe Thảo báo tin sẽ đến New Orleans và muốn gặp bạn Thụ Nhân là chị đã gửi ngay email mời chúng tôi đến tạm trú tại nhà. Nhưng vì đã đặt phòng từ trước và hơn nữa muốn ở bên phía Metairie, gần căn nhà cũ của Momo, để tiện việc gặp gỡ Momo và đi thăm viếng trung tâm French Quarter nên chúng tôi đành phải hẹn chị một dịp sau.

Chúng tôi theo anh chị đến quán Kim Sư ở bên Gretna, gần khu vực anh chị ở, ăn cơm tối. Nhà hàng này nấu ngon không thua gì những nhà hàng Hoa Việt ở Bolsa. Nhờ cháu gái của chị Thuần, một “chuyên viên ăn cua”, nên chúng tôi đã được thưởng thức một món cua New Orleans rang muối thật ngon ngọt.

Sáng hôm sau, anh chị Thuần Thịnh đến đón chúng tôi từ sớm để đi dạo French Quarter, ghé Café Du Monde (Quán Cà Phê Của Thế Giới) uống café, ăn bánh beignet. Quán cà phê này là một quán hàng nổi tiếng nằm trên đường Decatur, từ lâu đã được biết đến với món cafe au lait (cà phê sữa), và bánh beignet, một món bánh tiêu của Pháp. Chị Thuần nói quán café Du Monde mở thường trực 24 giờ (trừ Giáng Sinh), và có 3 ca, sáng, chiều, tối để phục vụ khách hàng. Tiếp đãi viên Việt Nam cũng chiếm một số khá đông trong quán café này. Mới tảng sáng mà quán café này đông quá sức là đông, người ngồi, đứng la liệt từ phía trong quán ra đến tận những bồn hoa xây bằng gạch ngoài sân. Quán Café Du Monde có một lối bán hàng rất là đặc biệt, những người tiếp đãi viên phải luôn có sẵn tiền, khi khách đặt mua hàng xong rồi là người tiếp đãi viên sẽ đi vào trong bếp mua hàng, trả tiền cho thâu ngân viên, đem ra ngoài mới thâu lại tiền (và tips) của khách.

Chắc anh chị Thuần Thịnh là khách quen của quán hàng này nên vừa bước vào là đã nghe tiếng người gọi chào ơi ới. Chúng tôi được chị Hạnh, người quen lâu năm của chị Thuần, và cũng là đồng hương ĐL của Thảo, dẫn vào một bàn trống ở khu vực chị coi sóc. Chị bảo để chị đãi chúng tôi ăn sáng, vì mỗi tháng tiệm vẫn cho nhân viên một số “bonus” bánh, café để đãi bạn bè? Buổi sáng trời man mát, ngồi uống cafe sữa nóng của Cafe Du Monde ngon thật, nhưng tôi không “cảm” được cái món bánh beignet này vì nó có vẻ hơi nặng nề, lại còn được bao phủ một lớp đường bột bên ngoài ngọt đứ đừ.

Ăn uống xong anh chị Thuần Thịnh hướng dẫn chúng tôi đi một vòng French Quarter, thăm viếng French Market buổi sáng, nhìn những cửa hàng ở trong khu vực này vừa bắt đầu chưng dọn hàng hóa. Khu chợ này không có gì hấp dẫn, hàng hóa được bày bán luộm thuộm như lối bán hàng ở khu chợ trời, và giá cả thì cũng… ngang trời.

Rời khu French Market chúng tôi đi dọc theo bờ sông dạo mát. Nước triều đang xuống thấp, nên có nhiều người đã đi bộ băng qua cồn cát… nhúng nước, rửa chân. Chúng tôi đi vòng qua phía bến tàu, chụp hình những con tàu chạy bằng hơi nước chở khách đi dạo trên sông Mississippi, chụp hình đài kỷ niệm di dân Ý Đại Lợi rồi còn nhanh chóng trở về vì đã có hẹn đi ăn với Momo trưa nay. Chúng tôi hẹn với anh chị Thịnh Thuần là buổi tối sẽ trở lại nhà anh chị để cùng nhau đi ăn cơm phần có canh chua, cá kho tộ ở tiệm Hoa Hồng 9.

Trong lúc chờ đợi Momo và Jackie từ Folsom qua, tôi đi lang thang trong sảnh đường khách sạn nhìn ngắm những cái bích chương quảng cáo cho những mục ăn chơi của New Orleans gắn ở trên tường. Nhìn cái tướng lớ ngớ của tôi, một cô tiếp viên ngồi ở ngay quầy tiếp tân biết ngay tôi là dân mới tới thăm viếng thành phố này lần đầu tiên. Cô bỏ chỗ ngồi ra hỏi xem tôi có cần cô giúp đỡ gì cho những ngày thăm viếng New Orleans của tôi không. Tôi nói không, vì tôi chỉ có vài ngày ở tại thành phố này chỉ đủ để thăm bà con, bạn bè. Cô đưa cho tôi vài quyển TravelHost của New Orleans để đọc qua cho biết. Trước khi trở lại quầy làm việc cô còn cố gắng giới thiệu:

- Bà nên tham dự tour đi thăm viếng nghĩa trang, vì chỉ ở New Orleans mới có cái mục “ngoạn cảnh” đặc biệt này, và nơi thu hút đông đảo khách viếng thăm nhất là nghĩa trang St. Louis #1. Nếu bà cần lấy vé trước, tôi sẽ giúp bà.

Tôi nói cảm ơn cô rồi cầm mấy quyển sách về ghế ngồi. Vừa mở qua vài trang đầu của một quyển Travel Host tôi đã thấy bài giới thiệu về thành phố ma quái, về tour đi thăm viếng “Nhà Ma”. Quyển khác nói về huyền thoại của ngôi mộ bà hoàng phù thủy Marie Laveau, và những cái tour đưa du khách đi ngoạn cảnh ở những nghĩa trang nổi tiếng của New Orleans, một “thắng cảnh đặc biệt” mà chỉ ở New Orleans mới có.

New Orleans, cũng như tất cả những thành phố khác trên thế giới đều có những danh lam thắng cảnh để du khách thăm viếng. Trước khi đi New Orleans, tôi đã vào internet để đọc qua những lời giới thiệu về những địa danh nỗi tiếng, những thức ăn đặc thù, những mục ăn chơi của thành phố này xem tôi có thể thăm viếng những nơi nào với mấy ngày ngắn ngủi. Nhưng nhìn cái danh sách thì tôi biết là mình không thích hợp với nhiều chương trình đề nghị của cái mục “things to do in New Orleans”, chẳng hạn như tour thăm viếng nghĩa trang, du ngoạn đầm cá sấu, steam boat ngắm cảnh, nghe nhạc Jazz, sòng bài…

Tôi thì không cảm được cái âm thanh “não nuột” của nhạc Jazz, và tôi cũng không mấy hăng hái với cái chuyện ngồi thu lu trên những chiếc xuồng sắt nho nhỏ, len vào đầm lầy lau sậy để ngắm những chú cá sấu đen đủi hung tợn, nên hai cái món “to do” này bị loại đầu tiên.

Đôn, con tôi, đã đi ngắm cảnh trên steam boat trong lần sang New Orleans sửa nhà cửa cho người bị bão Katrina về nói steam boat đi dọc trên giòng sông Mississippi chẳng có gì đặc biệt, vì thuyền chỉ chạy ven bờ một quãng rồi trở lui, và tôi cũng không cần mầy mò thăm thử những món ngon của vùng đất phương Nam, vì những món ăn Cajun ở “Cressent City Restaurant” gần nơi tôi ở có vẻ còn đặc sắc hơn những món Cajun ở vùng đất phát xuất ra nó.

New Orleans cũng có vài sòng bài, nhưng theo lời những người bạn đã thăm viếng New Orleans về cho biết thì những sòng bài ở thành phố này rất ồn ào, và nuốt tiền ừng ực, muốn “nhặt” được một ít tiền còm thì khách du lịch nên đi qua mạn Mississippi, về vùng Biloxi, cách New Orleans khoảng gần hai giờ lái xe, vừa tìm kiếm vận may và cũng có thể dạo chơi với biển xanh cát trắng…

Nhưng mục đích chính của tôi là về New Orleans để gặp lại Momo, viếng thăm làng Versailles và để Thảo có dịp gặp bạn Thụ Nhân nên tôi cũng không hăng hái lắm với chuyện lái xe đi vãn cảnh phương xa và thử thách vận rủi may.

Còn chuyện đi thăm viếng, ngoạn cảnh “chỉ có ở New Orleans” này thì chắc không bao giờ tôi dám ghi danh. Tôi vốn bổn mạng cầm tinh con... “thỏ đế”, và vì vẫn quan niệm âm dương là… hai phương trời cách biệt, nên mấy cái tour du ngoạn thăm viếng nghĩa trang này không hấp dẫn được tôi.

blank
Cây xồi ma quái.

Tuy nhiên, vì tò mò, tôi cũng tìm hiểu về những cái tour “đặc biệt” này. Theo tài liệu tôi đã đọc qua thì New Orleans là một vùng đất có nhiều kỳ quan nghĩa địa nổi, những thành phố của người chết (Cities of the Dead). Có khoảng 42 nghĩa trang trong vùng đất New Orleans. Những ngôi mộ ở nơi này được xây dựng trên mặt đất với lối kiến trúc sắc sảo, nghệ thuật trang trí đặc biệt khác hẳn với lối kiến trúc của các ngôi mộ bình thường. Có nhiều ngôi mộ được xây cất với hình thể của những căn nhà nho nhỏ. Những “căn nhà” này được xây cạnh nhau theo hàng, theo lối, cũng có vỉa hè và cây cối ở phía trước, chung quanh, giống như những căn nhà bình thường trên một con đường trong thành phố.

Sở dĩ, người dân New Orleans phải xây mộ trên mặt đất vì New Orleans là một vùng đất đầm lầy, có mực nước ngầm cao. Chỉ cần đào vài nhát cuốc thôi là đã thấy vũng đất đầy nước, nên quan tài sẽ nổi lềnh bềnh nếu được chôn trong lòng đất. Trước đó nhiều năm, người ta đã nghĩ đến việc đặt đá nặng trên quan tài để giữ chúng dưới lòng đất, nhưng chỉ cần một vài trận mưa lớn thôi là mực nước tăng lên, và quan tài sẽ trồi lên khỏi mặt đất. Hồi bão lụt Katrina, đã có nhiều quan tài đã bị nước đẩy ra khỏi lòng những “căn nhà” của chúng và trôi lềnh bềnh khắp nơi.

Nếu du khách mới đến viếng thăm New Orleans lần đầu tiên, thì sẽ rất ngạc nhiên khi thấy những biểu ngữ “Save Our Cemeteries” nhan nhản trên những góc đường thành phố. Không phải là chính phủ đang đe dọa dời bỏ những cái nghĩa trang trong thành phố nên dân chúng ở đây phản đối, kêu gọi sự giúp đỡ của mọi người đâu, mà đó chỉ là lời kêu gọi của một cơ sở bất vụ lợi, đang quảng cáo cho chương trình du ngoạn thăm viếng các nghĩa trang. Những chương trình này đều có người hướng dẫn (những người này tình nguyện làm việc không lương), để giới thiệu với khách du lịch những cảnh quan đẹp đẽ của nghĩa trang. Lợi nhuận thu được từ những chương trình du ngoạn này đều dành vào việc trùng tu và bảo quản những ngôi mộ cổ. Tour thăm viếng nghĩa trang là một trong những tour “ăn khách” ở New Orleans và hai tour được nhiều người biết đến là tour đi viếng nghĩa trang St. Louis số 1, và nghĩa trang Lafayette số 1.

Sở dĩ nghĩa trang St. Louis số 1 được nhiều người đến thăm viếng nhất vì đây là một nghĩa trang lâu đời nhất tại thành phố và vẫn đang được sử dụng. Nghĩa trang St Louis số 1 nằm rất gần French Quarter và khu vực Downtown, được xây dựng năm 1789 và là nơi an nghỉ của các nhân vật nổi tiếng như Paul Morphy, Homer Plessy, Ernest Morial (thị trưởng da đen đầu tiên của New Orleans) và nữ hoàng ma thuật Marie Laveau v.v…

Trong những ngôi mộ của những nhân vật nổi tiếng được chôn cất ở nghĩa trang St. Louis số 1 thì ngôi mộ của nữ hoàng ma thuật Marie Laveau được nhiều người đến viếng nhờ những huyền thoại thêu dệt về sự linh hiển của nữ hoàng ma thuật này được truyền tụng trong nhân gian. Người ta đã đồn đãi là nếu đem lễ vật, hoa đèn tới cúng kiến, cầu khẩn thì sẽ được bà ban phước lành, nhưng nếu ai mà đến mộ bà phá phách trêu chọc thì chỉ rước lấy những hậu quả thảm khốc. Có người đã quả quyết là từng bị hồn ma của bà tát tai chỉ vì ông đã buông lời chê bai tại phần mộ của bà.

Theo một câu chuyện khác thì có một người lỡ đường, không đủ tiền ở trong nhà trọ đã quyết định ngủ qua đêm trong nghĩa trang. Ông thu mình trong một ngôi mộ nhỏ gần ngôi mộ của nữ hoàng phù thủy. Nửa đêm ông bị đánh thức bởi những âm thanh lạ. Đi gần đến ngôi mộ của nữ hoàng Marie Laveau ông nhìn thấy một đám đông mang hình tượng ma quái đang nhảy múa điên cuồng, và chính giữa đám đông đó là một người phụ nữ khỏa thân tỏa ngời với ánh sáng quái dị, và kinh khiếp hơn nữa là thân hình của bà được quấn tròn trong một con rắn cũng đang ngoe ngoảy theo điệu múa. Không cần phải nói thì người khách lỡ đường này đã chạy bán sống bán chết ra khỏi khu vực ma quái đó.

Một huyền thoại khác đã nói về ngôi mộ này là chuyện “Bàn Tay Ma” đã bắt lại những người đã cố tình đến trêu đùa trước hầm mộ bà hoàng phủ thủy. Theo câu chuyện này thì có ba người đàn ông trẻ tuổi đã chè chén say sưa trong khu phố Pháp, rồi trong lúc “trà dư tửu hậu”, họ nói về chuyện về bàn tay ma trong hầm mộ của bà hoàng phù thủy Marie Laveau, rồi đánh cá với nhau xem ai có can đảm ngủ một đêm bên hầm mộ của bà. Một người trong bọn đã hăng hái chấp nhận cuộc thử thách này để lấy $30 tiền đánh cá. Sáng hôm sau không thấy bạn của mình trở lại hai người bạn đã đi tìm, và họ đã tìm thấy bạn của mình nằm chết trên mặt đất. Người ta đồn rằng người trẻ tuổi này đã trèo vào ngôi mộ và bị nữ hoàng bắt lại. Không ai biết anh ta có nhìn thấy bàn tay ma quái hay không, nhưng theo sự giảo nghiệm của bác sĩ thì nạn nhân đã chết vì sợ hãi đến đứng tim.


Nghĩa trang Lafayette số 1 là nghĩa trang được nhiều người viếng thăm sau nghĩa trang St. Louis số 1. Nghĩa trang Lafayette số 1, nằm trong Garden District, được mở cửa vào năm 1833 và là một trong những nghĩa trang được chụp ảnh và quay phim nhiều nhất ở New Orleans. Một trong những cảnh trong phim “Phỏng Vấn Ma Cà Rồng” cũng đã được quay tại đây.

Nhưng theo lời cảnh cáo của TravelHost thì nếu muốn đi “tham quan” tour đặc biệt này chúng ta không nên đi một mình vì các con đường nhỏ hẹp và những bức tường thành cao lớn của “Cities of the Dead” cũng là nơi chốn ẩn nấp của những bọn cướp. Đã có rất nhiều du khách bị trấn lột khi đang lang thang tìm hiểu khung cảnh “ngoạn mục” này. TravelHost đề nghị là du khách nên họp bạn bè, người quen lại thành từng nhóm để cùng nhau đi dạo, nhưng tốt nhất là hãy ghi danh vào chương trình tour của “Save Our Cemeteries”.

Buổi chiều, sau khi chia tay với Momo và Jackie rồi tôi và Thảo lái xe đi một vòng thành phố. Chúng tôi đi dọc theo con đường chính chạy thắng ra bờ hồ Ponchartrain. Tôi không biết hình ảnh trước kia của cái hồ nổi tiếng này ra sao, chứ nhìn hình ảnh xơ xác của bây giờ trông thảm não lắm. Rời hồ Ponchartrain, chúng tôi đi ngược về City Park, một công viên cũng khá nổi tiếng của thành phố New Orleans, nơi có những khung cảnh hoang dã tự nhiên, với những chú chim, chú cò thơ thẩn dạo vòng quanh bờ hồ, có cây lá rủ bên cầu. Trong lúc Thảo thong thả chụp hình thì tôi thảnh thơi ngồi đu đưa bên cạnh chiếc cầu đá bắc ngang hồ nước ngắm cảnh.

Ngày hôm sau là thứ Sáu, Thảo và tôi đi đến khách sạn nơi Tùng, vợ chồng Kim Tâm và Thăng đang tạm trú để đón Kim Tâm đi chơi với chúng tôi. Tùng, Thăng và Kim Tâm cũng là dân Thụ Nhân. Kim Tâm học cùng phân khoa CTXH với Thảo, sau Thảo một khóa, còn Thăng và Tùng học bên CTKD. Ngoài tình bạn Thụ Nhân với Thảo, Tùng còn là “bạn ảo” của tôi trong diễn đàn TR, tôi biết Tùng qua những tấm hình người nghệ sĩ kéo đàn trên vỉa hè ở khu phố Pháp, đường phố, chợ phiên New Orleans mà anh đã post lên diễn đàn. Trước ngày đi New Orleans, tôi có email cho Tùng hỏi thăm về những khách sạn có thể tạm trú ở thành phố này thì Tùng đã nhanh chóng gửi cho tôi tin tức, hình ảnh và tận tình chỉ bảo nơi nào nên ở, nơi nào nên tránh. Tùng còn gửi cho tôi một danh sách có đầy đủ địa chỉ của những tiệm ăn ngon trong vùng. Tùng hẹn sẽ dẫn Thảo và tôi đi thưởng thức những món ngon, món lạ của miền đất phương Nam. Tùng còn giới thiệu cho chúng tôi hai người bạn mới, Thăng và Kim Tâm, cũng ở cùng một tiểu bang Calif với tôi.

Khi chúng tôi tới khách sạn, Tùng, Thăng đã đi làm, hẹn chiều nay sẽ gặp tôi và Thảo cùng đi ăn tối. Chúng tôi và Kim Tâm chạy qua bên Westbank ăn sáng ở phở Hòa. Khi tới nơi, nhìn thấy con đường quen quen, Thảo chợt nhận ra là tiệm phở này ở trên đường đi tới nhà anh chị Thuần Thịnh, nên anh gọi phone mời hai anh chị đến ăn luôn. Thảo giới thiệu Kim Tâm với chị Thuần, và không quên nói cho chị biết là còn có thêm hai người bạn Thụ Nhân nữa đang đi làm ở gần bên Westbank. Chị Thuần nghe nói chiều nay chúng tôi sẽ về Metairie để đi ăn cua ở Mandarin House Seafood Buffet nên đề nghị tất cả tới nhà chị chơi, để chị có cơ hội kết thân thêm bạn Thụ Nhân mới. Nếu chúng tôi đồng ý thì chị sẽ gọi vào sở xin phép nghỉ ở nhà đi chợ, nấu ăn, và sẽ đãi món cua Louisiana tôi thích.

Chả lẽ chúng tôi lại phụ lòng tốt của bạn Thụ Nhân. Kim Tâm gọi cho Thăng và Tùng, báo tin thay đổi chương trình buổi tối. Thế là chúng tôi và anh chị Thuần Thịnh chia tay sau khi ăn xong bữa sáng. Kim Tâm sẽ hướng dẫn chúng tôi đi ngắm cảnh một vòng thành phố. Còn anh chị Thuần Thịnh thì trở về nhà sửa soạn làm cơm đãi khách.

Rời Westbank chúng tôi trở lại New Orleans, đi băng qua hồ Pontchartrain, tới thành phố Mandeville xem cảnh đẹp bên phía Bắc bờ hồ. Những căn nhà bên bờ hồ đã được tu bổ đẹp đẽ, và đã được cất lại theo lối nhà sàn với những cái cột trụ bằng gạch cao có thể hơn 8 hay 10 feet, vuông vức, chắc chắn. Thảo cho xe chạy vòng quanh những con đường nhỏ chung quanh Mandeville, để ngắm nghía và chụp hình những cái nhà sàn thành phố này, rồi không hiểu loanh quanh thế nào mà Thảo chạy lạc vào một khu dân cư vắng lặng, toàn là nhà trệt, nhưng lo tớn, khang trang. Khu dân cư này có một khoảng đất rộng ngay bên ngoài vùng nhà cửa, như một công viên nhỏ, với những đám cây sồi cổ thụ kết đầy Spanish moss, một loại chùm gởi lông lá rũ dài như những đám tóc ma trơi. Hình như loại cây sồi cổ với Spanish moss là một đặc điểm của miền đất phương Nam này, nhất là ở New Orleans, một vùng đất mang nhiều tính cách ma quái.

Cho tới giờ này thì truyền thuyết về loại Spanish moss đong đưa trên những cây sồi vẫn còn được nhiều người nhắc đến. Một trong những truyền thuyết về loài cây chùm gởi này là chuyện của người lính Tây Ban Nha và cô gái người Da Đỏ. Theo truyền thuyết thì người lính Tây Ban Nha này đã yêu say đắm người con gái cưng của viên tù trưởng một bộ lạc Da Đỏ. Mặc dù bị cha nàng ngăn cấm nhưng hai người vẫn tiếp tục bí mật hẹn hò với nhau. Khi tìm thấy họ, viên tù trưởng đã ra lệnh cho treo người lính này lên tận ngọn của một cây sồi cổ và chỉ cho anh một con đường sống nếu anh bằng lòng rời bỏ người yêu. Người lính Tây Ban Nha này thà chết chứ không bao giờ từ bỏ tình yêu của mình dành cho cô gái. Sau khi anh chết, bộ râu của anh vẫn tiếp tục mọc dài và quấn quít từ cành nọ sang cành kia, và lan dần qua những gốc cây sồi khác nữa như muốn chứng tỏ tình yêu mạnh mẽ của anh không có gì hủy diệt được. Người con gái của viên tù trưởng đã thề rằng nàng chỉ bằng lòng lấy chồng khi những cánh rong rêu tình yêu này biến mất trên những cành cây sồi vì nàng tin rằng lúc đó thì tình yêu của người lính Tây Ban Nha đã thật sự không còn tồn tại nữa…

Nhưng tôi thì lại thích cái huyền thoại bím tóc của nàng công chúa hơn là bộ râu tình yêu của người lính Tây Ban Nha vì câu chuyện bím tóc này có vẻ thơ mộng hơn. Theo cái truyền thuyết này thì ngày xưa có một nàng công chúa và một dũng sĩ sống hạnh phúc với nhau bên cạnh một giòng sông, nhưng không được bao lâu thì nàng công chúa bị bịnh rồi mất. Sau khi nàng công chúa qua đời, chàng dũng sĩ đem chôn nàng gần bên gốc một cây sồi cổ. Chàng đau buồn treo bím tóc đen dài của vợ trên các cành cây để đánh dấu nơi nàng yên nghỉ. Theo thời gian, những sợi tóc chuyển sang màu xám và gió đã cuốn những sợi tóc này lan từ cành nọ sang cành kia, như muốn để chia sẻ với chàng dũng sĩ nỗi đau buồn và cùng chàng khóc than, thương tiếc người bạc mệnh...

Rời khuôn viên đám sồi già ma quái, chúng tôi chạy theo con đường làng 190, băng qua thành phố Slidell là nơi Kim Tâm đã đến làm việc một lần. Dọc theo hai bên đường vẫn còn những căn nhà đổ nát bỏ hoang, khác hẳn với khu vực Mandeville cách nó không xa. Chúng tôi chạy vòng xuống xa lộ số 10, băng ngang hồ Pontchartrain bằng một con cầu ngắn để trở về lại New Orleans. Rồi chúng tôi rời khỏi xa lộ, chạy dọc theo con đường Michoud dẫn qua đại lộ Chef Menteur, tìm đến thăm làng Versailles, nơi có cộng đồng người Việt đang sinh sống. Tuy chỉ cách trung tâm thành phố khoảng 13 dặm nhưng khu vực miền Đông New Orleans này vẫn còn nhiều cảnh hoang tàn đổ nát. Tôi cảm thấy hơi rờn rợn khi Thảo cho xe chạy trên con đường Michoud vắng tanh, cỏ dại mọc cao tới nóc xe, lan tràn ra tận đến bờ đường. Đi gần hết con đường, gần ra đến đại lộ Chef Menteur, chúng tôi mới thấy bóng dáng nhà cửa, và đường xá trên khúc đường này có vẻ sạch sẽ hơn.

Thảo cho xe chạy vào con đường Dwyer, nơi có nhà thờ Maria Nữ Vương Việt Nam. Hình như, con đường này là con đường chính dẫn vào khu làng Versailles. Chúng tôi chạy vòng quanh những con đường dân cư nho nhỏ, mang những cái tên Việt Nam: Vanchu, Tudo, MyViet, Kim, Saigon... xen lẫn với những cái tên Willowbrook, Grand Bayou, Alcee Fortier, Peltier... bản xứ để ngắm nghía nhà cửa trong khuôn viên làng Versailles. Nhà của người Việt mình ở Versailles rất bề thế, rộng rãi, vườn cây rau trái mọc ê hề. Rải rác trên những con đường vòng quanh khu làng Versailles tôi thấy có nhiều cơ sở thương mại của người Việt, nào là tiệm ăn, tiệp tạp hóa, tiệm hớt tóc, trung tâm y tế Versailles, có cả tiệm Bida, và tiệm vàng...

blank
Chợ chồm hổm phố Việt.

Chúng tôi cũng đi ngang qua sân chợ chồm hổm trên đường Peltier để biết trước nơi họp chợ, lỡ ngày mai có muốn đi thăm thú thì cũng biết chỗ, biết nơi để khỏi phải lụp chụp. Nhìn qua hình ảnh phóng sự trên mạng tôi thấy nơi họp chợ có vẻ rộng rãi, nhưng trên thực tế thì đây chỉ là một khoảnh đất nhỏ, chỗ đậu xe, trước cửa một ngôi chợ VN. Theo lời Tùng và những người đã đi thăm viếng chợ chồm hổm này kể lại thì mỗi sáng thứ Bẩy, tại khoảnh đất nhỏ này có phiên chợ nhóm họp từ 6 giờ sáng, để bà con trong làng Versailles đem hàng hóa ra bầy bán cho nhau. Chợ ở nơi đây không có sạp hàng, mọi thứ đều được bày ra trên mặt đất, trên tấm bạt bằng ni lông hay bằng giấy. Hàng hóa chủ yếu là “cây nhà lá vườn”, rau trái trồng ở chung quanh nhà, hay tôm cá từ những gia đình có tàu đi biển và những thứ hàng “garage sale” khác. Người mua, kẻ bán, đứng ngồi trao đổi hàng hóa tiền bạc giống y chang như các chợ chồm hổm nghèo nàn thường thấy ở quê mình. Xem ra chẳng lời lỗ bao nhiêu nhưng cốt yếu để cho người mình có dịp nhau gỡ nhau, đàm đạo hàn huyên...

Rời sân chợ chồm hổm, chúng tôi đi thêm một quãng đường ngắn nữa là tới tiệm Đông Phương Food To Go. Chúng tôi chỉ ghé lại để mua bánh paté chaud, bánh bao với nước uống rồi lên đường đi tiếp. Sở dĩ chúng tôi phải gấp rút như thế vì Kim Tâm còn muốn dẫn đường cho chúng tôi đi ngang Garden District, chỗ mà cô nàng bảo là khu vực của nhà giàu ở New Orleans, với những tòa nhà to tướng, lộng lẫy. Chiều thứ Sáu, kẹt xe kinh khủng nên Thảo chỉ lái xe chạy loanh quanh một vài vòng Garden District theo những chuyến xe trolleys lên xuống trên con đường St. Charles, nhìn ngắm những tòa nhà to tướng. Thảo ghé xe ở lề đường chụp hình một căn nhà màu trắng đang treo bảng bán, có những cái cột trắng với lối kiến trúc cổ La Mã thật đẹp, nói đùa sẽ trở lại mua sau. Rời Garden District chúng tôi đưa Kim Tâm trở về khách sạn để nghỉ ngơi một chút trước khi sửa soạn đi sang nhà anh chị Thịnh Thuần.

Thêm một lần nữa chúng tôi vượt cầu con cò đi qua nhà chị Thuần, lần này nhờ kẹt xe nên tôi có thể chụp rõ ràng hình con cò sơn trắng ở ngay đầu cầu. Khi tôi và Thảo tới nhà anh chị Thịnh Thuần thì Tâm và Thăng đã có mặt ở đó rồi. Chị Thuần đang sửa soạn chảo điện ngoài phòng ăn, chị xin lỗi là đã không mua được cua tươi ngày hôm nay, nên phải làm món chả cá Thăng Long thay thế. Mọi người ngồi vào chỗ rồi mà vẫn không thấy bóng dáng Tùng đâu. Sợ Tùng đi lạc vì con đường vào nhà chị Thuần có hơi rắc rối, lại phải qua cổng an toàn nên Thăng gọi cho Lộc. Sau khi tắt máy Thăng nói Tùng không đến được, vì trưa hôm nay Tùng đi ăn tiệc gây quỹ ở sở, không biết đã ăn phải món gì mà anh bị Tào Tháo rượt từ chiều tới giờ. Tùng đã uống thuốc, định nghỉ ngơi một chút rồi sẽ đến nhưng mệt quá nên đành chịu. Tùng đang tìm điện thoại chị Thuần để gọi cáo lỗi thì nhận được điện thoại của Thăng.

Ăn uống xong, ở chơi với anh chị Thuần Thịnh tới 10 giờ chúng tôi cáo từ để đi dạo French Quarter vào buổi tối, xem khung cảnh nhộn nhịp của nơi này. Đậu xe ở trước cửa quán Café Du Monde rồi chúng tôi nhanh chóng theo chân dòng người đông đảo đi trẩy hội từ con đường này sang con đường khác. Nhìn đám đông người chen chúc với nhau tôi có cảm tưởng là tất cả người trong thành phố New Orleans đều túa ra tụ họp ở đây đêm nay. Tiếng cười đùa huyên náo vang dậy khắp nơi, nhất là ở con đường Bourbon. Chưa đến mùa Halloween nhưng những hình ảnh ma quái đã xuất hiện đầy dẫy trên khung kính những tiệm ăn, tiệm rượu của French Quarter. Thảo và Thăng hồ hởi ngắm nghía và chụp hình những khung cảnh “đặc biệt” của thành phố về đêm, chụp ảnh những cô gái đi dự hội đêm ở French Quarter, với những bộ quần áo bikini hai mảnh rất là “mát mẻ” như đang... dạo chơi trên biển. Họ đứng dọc theo lan can trên lầu của những tiệm rượu hò hét, thẩy vòng, chuỗi, dây đeo cổ xuống cho khách bộ hành. Trong những hình ảnh “đặc biệt” Thảo chụp đó tôi thấy có hình một “tượng” người thật, sơn bạc từ cổ tới chân, đứng giữa phố, đưa một ngón tay... lên trời. Tuy không mấy thích tấm hình này vì có vẻ hơi “xâm phạm thuần phong mỹ tục” nhưng tôi phải phục là anh chàng hóa trang thành tượng bạc này thật kiên nhẫn, vì anh có thể đứng từ giờ này qua giờ khác không nhúc nhích.

Đi vòng vòng một hồi tôi thấy chóng mặt nên rủ mọi người rẽ những con đường bên cạnh, về phía Jackson Square. Chỉ cách có một khoảng ngắn thôi mà khu vực này khác xa vùng Bourbon ánh sáng. Jackson Square vắng lặng hơn, có vẻ tối tăm hơn với những ngọn đèn đường mờ ảo và ánh đèn leo lét của những sạp hàng nhỏ bên vỉa hè bán những mặt hàng “thuộc về thế giới huyền bí ”. Tôi không biết là những người bán hàng này có được bao nhiêu người khách mỗi đêm, vì thỉnh thoảng tôi mới thấy được một quán hàng có người xà xuống xem bói bài hay mua mấy sợi dây “bùa?” đeo cổ, đeo tay.

Qua hết vùng Jackson Square, chúng tôi lại trở về ngay trước cửa Café Du Monde. Lúc này chắc chân cẳng của mọi người cũng đã rã rời nên chúng tôi đồng ý là vào trong quán nghỉ ngơi, uống café, ăn bánh Beignet, ngồi ngắm người đi qua đi lại. Quán Café Du Monde mang tiếng mở cửa 24 giờ nhưng giờ này cũng không có nhiều người, vì phần đông mọi người đã tụ tập sang phía đường Bourbon để uống rượu vui chơi hết rồi. Những bộ bàn ghế bên trong đã được xếp lại gọn ghẽ, chỉ còn độ hơn chục cái bàn trống ở gần phía mặt đường. Bánh Beignet ban ngày còn khá, nhưng hình như giờ này thợ buồn ngủ nên không được chiên tới lửa, ăn có vẻ dở sống dở chín. Chừng ra về, ghé lại chụp hình cái menu gắn trên tường tôi mới thấy tiếc là đã không biết trước để mua café đựng trong mug có logo của tiệm đem về làm kỷ niệm.

Sáng thứ Bẩy chúng tôi trở về Cali. Vì tối hôm qua đi chơi ở French Quarter tới hai giờ sáng nên chúng tôi ngủ dậy muộn, không kịp đi viếng chợ chồm hổm, chúng tôi chỉ có đủ thì giờ thu dọn, trả phòng, trả xe rồi lên xe bus ra phi trường. Thôi đành hẹn New Orleans và chợ chồm hổm ở làng Versailles một chuyến thăm viếng khác.

Bảo Trân

TNIC*: diễn đàn của cựu sinh viên VĐHĐL

Ý kiến bạn đọc
23/10/201606:13:14
Khách
Đọc mục "Viết Về Nước Mỹ" của báo điện tử Việt báo thật là thích thú.
Dù Không đi đâu nhưng được thăm viếng khắp nơi, từ đảo quốc Đài loan qua bài viết "Đài Loan Bút Ky" của tác giả Nguyễn Trần Phuơng Dung; được tham dự sinh hoạt với một cộng đồng Việt Nam thu nhỏ qua bài "Một Chuyến Đi" của tác giả Hoàng Nga và tuần này được đi viếng thăm New Orleans mà báo chí đă một lần nhắc nhở qua bão Katrina và trận ngập lụt ghê gớm năm 2005.
Nhưng khác hai tác giả kia lần kể chuyện này sau khi chấm phá vài nét về tình cảm của người Việt tha phương mà là kể chuyện về vùng đất nầy vì nổi tiếng vì có nhiều nghĩa trang...
Cảm ơn tác giả vì qua bài viết đã trở về thời thơ ấu.
Ngày xưa lâu lâu mệ nội ( bà nội) dưới quê lên thăm con cháu, ngoài được ăn đặc sản quê nội thì tối nào cũng được quây quần quanh mệ để nghe kể chuyện đời xưa và cuối cùng là chuyện ma Việt Nam ( vừa rùng rợn vừa hài hước :hết ma trơi ,ma dấu ,ma rà đến ma lưỡi dài....... để rồi cả lũ cháu bốn năm đứa , đứa nào cũng có rúm lại không dám bước xuống trở về giường của mình để đi ngủ...
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 833,302,993
Tác giả đã góp nhiều bài viết đặc biệt và đã được trao tặng giải thưởng Việt Về Nước Mỹ. Ông sinh năm 1951, du học Nhật trước 1975. Đến Mỹ năm 1981. Hiện là cư dân Irvine, Nam California. Công việc: Kỹ Sư Điện tại một hãng trong cùng thành phố. Đây là bài viết mới nhất
Bà cho biết tên thật Jeanne Bùi, sinh năm 1945. Từ trước 1975, dạy học ở Saigon. Sang Pháp từ 1982, đi học lại rồi làm việc cho Mairie de Paris (Tòa Thị Chính), hiện đã nghỉ hưu.
Tác giả là một nhà giáo tại Việt Nam. Sang Mỹ, bà có 10 năm làm việc trong ngành du lịch, hiện là cư dân Little Saigon. Với sức viết mạnh mẽ, Phùng Annie Kim đã nhận giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2016.
Tác giả đã nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ 2013. Năm 2019, Tác giả nhận thêm giải Chung Kết Vinh Danh Tác Giả Tác Phẩm Viết Về Nước Mỹ hay còn gọi là giải Hoa Hậu. Tốt nghiệp Y Khoa Huế, thời chiến tranh Bác sĩ Vĩnh Chánh đã là Y Sĩ Trưởng binh chủng Nhảy Dù.
Tác giả là cư dân Huntington Beach. Những Bài Viết Về Nước Mỹ đầu tiên của cô là “Chuyện Vui Sầu” ký bút hiệu Khánh Doãn đã được phổ biến từ tháng Tư 2011.
Nguyễn Cao Thăng là tên thật của tác giả, 52 tuổi, dân gốc Kinh 5 Rạch Giá, một cựu thuyền nhân, hiện là kỹ sư cơ khí của hãng máy bay Beechcraft tại Wichita, Kansas.
Tác giả hiện sống ở thành phố Victorville California, đã từng tham gia VVNM năm 2018
Tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2012, với những bài viết linh hoạt về đời sống tại Mỹ kèm theo hình ảnh hoặc tài liệu do ông thực hiện hoặc sưu tập.
Tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2015. Bà sinh năm 1948 tại Biên Hòa, cựu học sinh Ngô Quyền.
Tác giả dự Viết Về Nước Mỹ từ 2004. Võ Phú sinh năm 1978 tại Nha Trang-Việt Nam; định cư tại Virginia-Mỹ, 1994. Tốt nghiệp cử nhân Hóa, Virginia Commonwealth University.