Hôm nay,  

Tết Mà Sao Vẫn Nhớ

06/02/201600:00:00(Xem: 11447)
Tác Giả: Thang Chu
Bài số 3743-17-30243vb7020616

Tác giả tên thật Chu Toàn Thắng, sinh năm 1962 hiện là cư dân Garden Grove. Công việc: Minister at Community of Agape Love Church. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của ông là “Chỉ Cần Một Tay” đã phổ biến đầu năm 2016. Bài viết thứ hai kể về những ngày cuối năm của một gia đình gốc Việt có người chồng, người cha từng là sĩ quan VNCH, cựu tù nhân, và có người con mất tích trên đường vượt biển tìm tự do.

* * *

Đã là cuối năm, sắp Tết mà sao Little Sài Gòn vẫn im re! Thì ra năm nay không có hội đoàn nào ở Garden Grove tổ chức hội tết quanh khu này. Mọi hội vui xuân phải chờ đến cuối tuần sau Tết, mà cũng ở bên Costa Mesa. Trước Tết, chỉ có cái chợ hoa Phước Lộc Thọ. “Êm ả vậy mà tốt ông à.” Bà vừa nghẹn ngào nói với qua phòng khách nơi ông đang ngồi xem báo để tự an ủi, vừa loay hoay mở gói hàng trong bếp mới nhận trưa nay.

Hai ông bà mới dọn về vùng Little Sài Gòn một năm nay đúng ngay mùa Tết Ất Mùi từ tiểu bang lạnh Michigan.

“Tôi thích nhất là thời tiết ấm áp ở đây,” bà cứ hay nói vậy. Còn ông thì, “Tôi thích nhất là ăn uống. Gì đâu mà tô phở 50% off chỉ còn bốn đô lại ngon còn hơn tô tám đô bên đấy bà ạ!” Bà đáp ngay, “Ối giời, tôi thì mong họ bán mười đô để ông không dám ăn hoài!”

Con cháu chẳng đứa nào chịu về đây sống cả vì mỗi đứa một phương theo việc làm của chúng, nên ông bà lấy sinh hoạt cộng đồng làm niềm vui. Nào là phố Bolsa với các cửa hàng toàn tiếng Việt. Chỉ nội thấy chữ Việt là đã vui rồi! Lại còn thêm chợ búa thì tha hồ mắm và rau! Chả bù bó rau muống bốn đô mua mà xót ruột nhưng cứ phải mua vì thèm. “Còn sống và ăn được thì có gì mà tiếc; bù lại mười năm tù cải tạo tưởng mất xác giữa rừng núi Bắc Việt bà ạ,” ông cứ hay nói vậy mỗi khi bà cằn nhằn vật giá chợ Việt ở bang lạnh leo thang.

Niềm vui nhất của ông vẫn là cà-fê sáng với các vị cựu chiến binh cũng là cựu tù cải tạo với ông. Ôi biết bao nhiêu chuyện để nói của hàng mấy chục năm kháng chiến, rồi chống cộng, rồi tù ngục, rồi con cháu thành đạt. Cứ chuyện này dẫn sang chuyện kia mà ngày này tháng nọ không bao giờ hết. Đặc biệt ông bà luôn cặp đôi nhau trong những cà-fê đàm này theo thói quen bóng hình bất ly ở xứ lạnh kia. Cũng chính sự có mặt của bà như món tráng miệng để tăng phần khẩu vị đàm thoại theo cái nhìn của một vợ tù cải tạo.

“Mấy ông khổ riêng một nỗi tù, còn mấy bà chúng tôi khổ chung nhiều nỗi lắm. Gạo, chợ, nhà, chính quyền, kinh tế mới, kiểm tra hộ khẩu, dạy con, nuôi con. Kể không hết đâu. Có bà còn phải bán thân cho cán bộ để giữ lại cái nhà, tránh kinh tế mới, cho đàn con chờ ngày ông về đấy! Đừng trách chúng tôi nhé!” Bà hay nói những sự thật bất ngờ như thế nên các ông cứ sôi nổi lên là phải. Ông nào im lặng mới là lạ!

Có lẽ ít người có kinh nghiệm và chứng kiến những cảnh đau thương như bà vì bà ở ngay trong Cư Xá Sĩ Quan Chí Hòa, Sài Gòn, với phân nửa gia đình đã may mắn cao bay trước Tháng Tư Đen và phân nửa còn lại thì chịu cảnh chồng tù, vợ góa, con côi thuộc loại lý lịch mười hai chỉ thua mấy ông một số mười ba.


Nhưng khổ đến đâu thì cũng phải đón Tết. “Đón kỷ niệm ông bà mà, nên mẹ con mình cứ vui ba ngày Tết, đói ba tháng hè. Bố các con cũng đang đón Tết đấy!” Bà hay nói vậy với các con để chúng được yên ủi suốt những tháng năm đón Xuân không bố với niềm hy vọng Xuân sau sẽ lại gặp. Nhất là đêm Giao Thừa không bao giờ thiếu cái chén thứ tám trên bàn ăn gia đình ngay chiếc ghế trống đã bạc màu dành riêng cho bố trước ngày chia ly. Rồi mỗi đứa chúc bố một câu tốt lành nhất gửi theo làn khói nhang phảng phất quanh bàn thờ tưởng niệm ông bà bay ra tận phương Bắc. Thật là lạ, chỉ một bữa ăn đạm bạc đêm Giao Thừa mà có thể nuôi dưỡng tinh thần quyết sống cho sáu đứa con và bà suốt cả năm trời đấy.

Cho nên Tết đối với ông bà là cả một thời điểm linh thiêng kỳ diệu, mà, chỉ có con tằm mới biết được tại sao mình nhả tơ. Nên bận rộn đến đâu, năm đứa con còn lại của ông bà vẫn phải về ăn Tết với ông bà, dù chỉ một ngày.

“Tết này tôi có mua một bộ chén đũa đặc biệt từ Thái-lan cho con Hai. Ông xem này đẹp không?” Bà mân mê trong tay bộ chén đũa mạ vàng mới nhận từ UPS. Ông không trả lời, chỉ nhìn trân bộ chén như muốn chờ nghe điều gì đó từ vật vô tri ấy.

Vốn là từ nhiều năm qua sau khi gia đình tới Mỹ theo diện H.O, trên bàn ăn đêm giao thừa vẫn để riêng một bộ chén đũa thứ tám nơi chiếc ghế trống, không phải cho ông như khi còn tù cải tạo, mà cho con Hai, chị cả của “ngũ long công chúa.” Nhà ông chỉ có một thằng con trai út mà thôi. Con Hai đã mất tích trong chuyến vượt biển sáu tháng trước khi ông ra tù. “Ngũ long công chúa không phải lúc nào cũng đại phước ông à; người ta đùa vậy thôi,” bà thường an ủi ông lẫn chính mình. “Trời xui đất khiến làm sao mà người ta kêu nó đi đúng ngày ba mươi tết, nên cúng giao thừa mình phải có bộ chén đặc biệt thật quý cho nó lần này đó. Hai mươi năm rồi, nhanh thật!”

“Hai mươi năm rồi mà sao vẫn nhớ nó bà ạ,” ông vẫn nhìn trân bộ chén vàng giờ đang trân trọng nằm trong tủ kiếng chờ đêm giao thừa. “Ước chi tôi về sớm hơn được sáu tháng thì...”

“Thôi ông đừng dở hơi,” bà nói át, “Ước với mơ gì nữa. Định mệnh đã thế. Cũng nhờ Trời mà ông thoát tù về bình an, và năm đứa con còn lại cũng an ủi mình, chứ chúng mà hư hỏng thì buồn lắm.”

Im lặng.

“Bà nè, tại sao phải chờ giao thừa. Tôi muốn bộ chén vàng đó trên bàn ăn mình từ hôm nay trở đi nha,” giọng ông bỗng vui hẳn lên như vừa tìm ra một chân lý, và mắt ông sáng lên như nhìn thấy con Hai xuyên qua kỷ niệm.

“Ừm, ý ông thật hay đấy. Mình sẽ có cả mùa Xuân trong chút năm tháng ngắn ngủi còn lại ở dương thế này. Đơn giản thế mà mình phải mất cả một đời người mới nghĩ ra. Ông hay thật đấy!”

“Bà gọi các con báo chúng biết nhà mình từ nay có thêm người về ở đi. Nhớ nhắc chúng không được bỏ lỡ Xuân này để gặp lại chị Hai nhá.”

Ông bà nhìn nhau ở khoảng cách xa xa từ bếp đến phòng khách như thể không muốn thấy đôi mắt hoen đỏ của nhau trong màn xẫm hoàng hôn đã len vào căn nhà nhỏ của họ.

Chẳng ai hiểu được vì sao bà vốn sợ ma nhưng vẫn chưa bật đèn lúc này.

Thang Chu

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 844,309,730
Tác giả từng sống ở trại tỵ nạn PFAC Phi Luật Tân gần mười một năm. Ông tên thật Trần Phương Ngôn, hiện hành nghề Nail tại South Carolina và cũng đang theo học ở trường Trident Technical College. Với bài "Niềm Đau Ơi Ngủ Yên" viết về trại tị nạn Palawan-Philippines, Triều Phong đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Bút hiệu của tác giả là tên thật. Bà cho biết sinh ra và lớn lên ở thành phố Sài Gòn, ra trường Gia Long năm 1973. Vượt biển cuối năm 1982 đến Pulau Bibong và định cư đầu năm 1983, hiện đã nghỉ hưu và hiện sinh sống ở Menifee, Nam California.
Tháng Năm tại Âu Mỹ là mùa hoa poppi (anh túc). Ngày thứ Hai của tuần lễ cuối tháng Năm -28-5-2018- là lễ Chiến Sỹ Trận Vong. Và Memorial Day còn được gọi là Poppy Day. Tác giả Sáu Steve Brown, một cựu binh Mỹ thời chiến tranh VN, người viết văn tiếng Việt từng nhận giải văn hóa Trùng Quang trước đây đã có bài về hoa poppy trong bài thơ “In Flanders Fields”. Nhân Memorial sắp tới, xin mời đọc thêm một bài viết khác về hoa poppy bởi Phan. Tác giả là nhà báo trong nhóm chủ biên một tuần báo tại Dallas, đã góp bài từ nhiều năm, từng nhận giải Vinh Danh Tác Giả Viết Về Nước Mỹ. Ông cũng là tác giả Viết Về Nước Mỹ đầu tiên có nhiều bài đạt số lượng người đọc trên dưới một triệu.
Với bài “Hành Trình Văn Hóa Việt tại UC Irvine”, tác giả đã nhận Giải Việt bút Trùng Quang 2016. Ông tốt nghiệp cử nhân về Ngôn Ngữ Học tiếng Tây-Ban-Nha tại UC Irvine. Sau 5 năm rời trường để theo học tại UCLA, tốt nghiệp với hai bằng cao học và tiến sĩ về ngành Ngôn Ngữ Học các thứ tiếng gốc La-Tinh, ông trở lại trường cũ và trở thành người đầu tiên giảng dạy chương trình tiếng Việt, văn hoá Việt tại UC Irvine từ năm 2000 cho tới nay. Sau khi nhận giải Việt Bút Trùng Quang 2016, tác giả vẫn tiếp tục góp thêm bài viết về nước Mỹ.
Tác giả 58 tuổi, hiện sống tại Việt Nam. Bài về Tết Mậu Thân của bà là lời kể theo ký ức của cô bé 8 tuổi, dùng nhiều tiếng địa phương. Bạn đọc thấy từ ngữ lạ, xin xem phần ghi chú bổ túc.
Tác giả hiện là cư dân Arkansas, đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2017. Bà tên thật Trịnh Thị Đông, sinh năm 1951, nguyên quán Bình Dương. Nghề nghiệp: Giáo viên anh ngữ cấp 2. Với bút hiệu Dong Trinh, bà dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7, 2016, và luôn cho thấy sức viết mạnh mẽ và cách viết đơn giản mà chân thành, xúc động. Sau đây, là bài mới viết về đứa con phải rời mẹ từ lúc sơ sinh năm 1975, hơn 40 năm sau khi đã thành người Mỹ ở New York vẫn khắc khoải về người mẹ bất hạnh.
Tác giả sinh trưởng ở Bến Tre, du học Mỹ năm 1973, trở thành một chuyên gia phát triển quốc tế của USAID, hiện đã về hưu và an cư tại Orange County. Ông tham gia VVNM năm 2015, đã nhận giải Danh Dự năm 2016 và giải á khôi “Vinh Danh Tác Phẩm” năm 2017. Bài mới của ông nhân Ngày Lễ Mẹ kể về người Mẹ thân yêu ở quê hương.
Hôm nay, Chủ Nhật 13, Mother’s Day 2018, xin mời đọc bài viết đặc biệt dành cho Ngày Lễ Mẹ. Tác giả tên thật Trần Năng Khiếu. Trước 1975 là Công Chức Bộ Ngoại Giao VNCH. Đến Mỹ năm 1994 theo diện HO. Đã đi làm cho đến năm 2012. Hiện là công dân hưu trí tại Westminster. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 8/2015. Đã nhận giải đặc biệt 2016. Nhận giải danh dự VVNM 2017.
Chủ Nhật 13 tháng Năm là Ngày Của Mẹ tại nước Mỹ năm 2018. Mời đọc bài viết của Nguyễn Diệu Anh Trinh. Tác giả sinh năm 1959 tại Đà Nẵng, đến Mỹ năm 1994 diện HO cùng bố và các em, định cư tại tiểu bang Georgia. Hiện là nhân viên công ty in Scientific Games tại Atlanta, tiểu bang Georgia. Bà đã góp bài từ 2015, kể chuyện về người bố Hát Ô và nhận giải Viết Về Nước Mỹ.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ bằng cách viết lời giới thiệu và chuyển ngữ từ nguyên tác Anh ngữ bài của một người trẻ thuộc thế hệ thứ hai của người Việt tại Mỹ, Quinton Đặng, và ghi lại lời của người me, Bà Tôn Nữ Ngọc Quỳnh, nói với con trai.
Nhạc sĩ Cung Tiến