Bài số 3980-14-29380vb2081213
Tác giả sinh năm1949, định cư tại Mỹ theo diện HO năm 1991, hiện là cư dân Westminster, California. Nghề nghiệp trước 75: dạy học. Công việc làm ở Mỹ: du lịch. Hiện đã hưu trí. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của tác giả góp cho giải thưởng năm 2013 là “Kock and Me / Vi trùng lao và Tôi.” Sau đây là bài viết thứ tư của Bà, bài viết cho mùa Vu Lan đang tới.
oOo
Tôi có hai bà mẹ, mẹ ruột và mẹ chồng. Gọi là mẹ ruột vì tôi sinh ra từ núm ruột của bà. Cái nhau đã nối liền sự sống của hai mẹ con. Tôi nằm ngoan trong cái bụng nặng nề của mẹ. Mẹ cưu mang tôi chín tháng mười ngày, đau đớn vật vã khi sinh tôi ra. Tôi lớn lên được mẹ nuôi dưỡng bằng tình thương. Tình thương của mẹ tự nhiên, sẵn có như khí trời bao trùm suốt cuộc đời tôi.
Tôi gọi mẹ chồng tôi bằng “mợ”, bố chồng tôi bằng “cậu” như đa số những người miền Bắc sống ở thành thị có thói quen gọi “cậu” “mợ” thay vì gọi là “thầy”
“u” như những người sống ở miền quê. Sau đám hỏi, để chuẩn bị làm đám cưới, tôi phải học làm dâu, qua lại bên gia đình nhà chồng, học cách ăn ý ở, làm quen với gia đình chồng. Tiếng “mợ” xa lạ trong ngôn ngữ xưng hô và trong tình cảm của tôi đối với bà mẹ chồng. Gọi là “mợ”, tôi cảm thấy nhẹ nhàng và dễ dàng hơn gọi là “mẹ”.
Tôi sống gần với mẹ chồng tôi thật ngắn ngủi. Cuộc đời làm dâu của tôi chỉ có vài tiếng đồng hồ ban ngày, vài buổi tối ngủ qua đêm tại nhà chồng mỗi khi có giỗ các cụ. Thời gian làm dâu lâu nhất của tôi là tháng đầu sau khi tôi sinh cháu gái đầu lòng. Mẹ tôi thương con, cưng cháu, muốn đem cháu ngoại về nuôi và chăm sóc tôi theo tâm lý chung của người đời “cháu bà nội tội bà ngoại” nhưng bà là người phụ nữ tế nhị và sâu sắc, trong khi tôi cho rằng quan niệm này đã xưa và có sự phân biệt đối xử với con cái “Con gái là con người ta. Con dâu mới thật mẹ cha mua về”, mẹ an ủi. giải thích và khuyên tôi là dâu con nên đem cháu về bên gia đình chồng cho “các cụ vui” với cháu nội, từ từ hãy tính chuyện ra riêng.
Thời gian đầu của vợ chồng son, ban ngày chúng tôi đi làm, trưa và chiều ghé về ăn cơm thay vì ăn cơm tháng hay phải tự nấu, ông chồng gửi tiền nhờ mợ đi chợ
và nấu ăn dùm. Ăn xong, rửa qua loa vài cái chén, hỏi thăm vài câu chuyện nhà, chúng tôi về căn nhà khang trang của ông chú chồng bỏ trống gần đó. Làm dâu cái kiểu “ăn chung ở riêng” đỡ tốn kém tiền bạc, tiết kiệm thời gian đi chợ nấu nướng, không phải trả tiền nhà nhất là “Ở xa mỏi chân ,ở gần mỏi miệng” thật là thoải mái, dễ chịu. Lúc này, vợ chồng tôi ra sức dạy tư kiếm tiền, dành dụm, thêm vào sự giúp đỡ của mẹ tôi, chúng tôi mua được một căn nhà nhỏ. Đó là lúc tôi hưởng được giá trị của các chữ tự do, tự lập và hạnh phúc của một mái gia đình, một tổ ấm do mình tạo dựng.
Nhiều lúc gần gũi bên mẹ chồng lúc mới về làm dâu, tôi tự hỏi mình có thương mẹ chồng như thương mẹ đẻ mình không? Ca dao có hai câu nói lên mối quan hệ giữa mẹ chồng và nàng dâu nghe sao “cạn tàu ráo máng”và… phũ phàng quá nhưng cũng phản ánh phần nào tâm lý của các nàng dâu nói chung và các nàng dâu Huế nói riêng:
Thương chồng phải nể mụ gia
Kể ra tui chẳng có bà con chi!
Đối với tôi, chỉ cần “nể mụ gia” là tốt lắm rồi. Từ “nể” đến “quý”phải vượt qua bao nhiêu chặng đường gần gũi và thân thiết. Từ “quý” đến “thương” là biết bao tình nghĩa sâu nặng.
Tình thương của tôi đối với bà mẹ chồng là tình thương có điều kiện, trải qua nhiều giai đoạn và có nhiều cung bậc khác nhau. Đó là tình cảm phát xuất từ lòng thương và kính trọng người già lớn tuổi, xa hơn nữa là tình người trong xã hội và gần nhất nhờ một chiếc cầu bắc qua sông là ông chồng. Ông chồng là nhịp cầu nối “đôi bờ” của hai bên kia sông, là trung gian giữa hai thế lực tình cảm luôn luôn co giãn và lôi kéo về hai hướng khác nhau. Ông chồng khéo xử là biết dung hòa để giữ thế quân bình, tạo hòa khí giữa hai người đàn bà mình thương nhất trong đời.
Trong ngôn ngữ, âm “m” là âm môi dễ nhất của đứa trẻ bắt đầu tập nói. Bé sẽ bập bẹ phát ra những âm thanh đầu tiên là âm “m”. Ngôn ngữ quốc tế trong đó có tiếng Việt đều gặp nhau trong phụ âm “m” này. Người Bắc, Nam hay Trung đều gọi người sinh ra mình bằng âm “m”: Mẹ, Má, Mợ, Mạ, Me . Người Trung Hoa gọi mẹ là “A Ma”, tiếng Hán Việt gọi mẹ là “mẫu”, tiếng Latin, “mẹ” là “Mater”, người Pháp gọi mẹ là “Maman” “mere”, người Anh, Mỹ gọi mẹ là “Mom”, “Mummy”, “Mother”, người Đức gọi mẹ là “Mueter”, người Nga gọi mẹ là “Mat”, người Ý gọi mẹ là “Madre”, người Ấn độ gọi mẹ là “Maji’, “Ma”, người Hòa Lan gọi mẹ là “ Moeder”, người Đan mạch gọi mẹ là “Moz”, người Hy lạp gọi mẹ là “Mana”, người Thụy Điển gọi mẹ là “Mor”, “Morsa”…và còn bao nhiêu âm “m” trong ngôn ngữ trên thế giới này để gọi “Mẹ”.
“Mẹ” khác nhau trong tiếng gọi nhưng đều chung một mẫu số là tình thương và sự hy sinh. Nhạc sĩ Y Vân cảm hứng về người mẹ nghèo, nửa đêm giặt quần áo của ông ở một máy nước công cộng trong giờ giới nghiêm để kịp phơi khô cho con sáng có quần áo sạch đi làm. Nhờ vậy chúng ta có bản nhạc bất hủ “Lòng Mẹ”. Nhà văn Nhất Hạnh viết “Bông hồng cài áo”có những câu “Ý niệm về mẹ thường không thể tách rời ý niệm về tình thương. Mà tình thương là một chất liệu ngọt ngào, êm dịu…”
Viết về mẹ tôi là tôi nhớ đến người phụ nữ vóc dáng cao, khỏe mạnh, đầy sức sống, đi đứng nhanh nhẹn, miệng nói tay làm, tham công tiếc việc, chịu thương chịu khó, mang một chí hướng và ước mơ làm giàu của người bỏ xứ ra đi lập nghiệp từ Bắc vô Nam năm 1942. Đây là cuộc đời của người đàn bà “hay lam hay làm”, suốt đời hy sinh, tận tụy để giúp chồng thành công trong công việc kinh doanh, giúp con cái học hành đỗ đạt nên người.
Mẹ tôi còn là một bà đầu bếp nấu ăn ngon, một nội tướng giỏi, một nhà quản lý kinh tế tài ba không tốt nghiệp từ một trường lớp nào ngoại trừ trường đời. Bà có khả năng xã giao, ăn nói hoạt bát, giúp ba tôi quán xuyến cửa hàng bán lẻ đàn và các đại lý bán sỉ, trông coi thợ thuyền, chăm sóc con cái, quan hệ với bà con trong họ ngoài làng từ Nam ra Bắc, làm tròn bổn phận của người dâu họ Phùng như gìn giữ truyền thống giỗ chạp các cụ mặc dù bà không phải là dâu trưởng và ăn chay trường.
Từ khi biết đạo Phật, mẹ cùng với ba trải rộng tâm từ, giúp đỡ họ hàng nghèo trong Nam và ngoài Bắc bằng những việc làm từ thiện như cho vay tiền không hẹn ngày trả, xây nhà trẻ, xây con đường làng, sửa đình, chùa, xây hệ thống điện… cho ngôi làng Đào Xá nơi chôn nhau cắt rốn của ông bà.
Tính tình mẹ cứng cỏi, thẳng thắn, ghét nịnh, thương người. Mẹ là cánh tay mặt của ba, là cái lưng vững chắc làm chỗ dựa cho ba trong những lúc thăng trầm, là ngọn đèn sáng cùng với Ba tiến về một hướng phía trước xây dựng và quản lý một cơ ngơi sản xuất nhạc cụ, cung cấp đủ các loại đàn tân cổ nhạc cho các tỉnh miền Trung và miền Nam hơn 30 năm.
Là bà chủ dưới tay vài chục công nhân, tài xế, người giúp việc, mẹ kiếm nhiều tiền, nhà cao cửa rộng, phương tiện vật chất đầy đủ, tiêu xài thoải mái nhưng mẹ sống chan hòa, không có óc phân biệt giai cấp, rộng rãi cho người và “thiểu dục” cho mình. Nhờ mẹ tu, giữ giới không sát sanh nên những bữa ăn của mẹ không có sơn hào hải vị, trái lại, thật là giản dị và thanh đạm với đậu hủ và tương, rau là chính.
Mẹ sinh cho ba mười một người con, mất hai còn chín. Cuôc đời mẹ trải qua nhiều hoạn nạn. Lần thứ nhất, căn nhà ba tầng bị cháy, sự nghiệp kinh doanh tan tành, mẹ và ba cùng nhau xây dựng lại từ trong đám gạch vụn hoang tàn một cơ ngơi khác bề thế ,vững vàng hơn. Lần thứ hai, mẹ bị phỏng khi xông vào dập tắt một trận cháy nhẹ, hai căn nhà bốn tầng không bị thiệt hại nhưng mẹ phải qua Nhật chữa trị vết nám trên mặt. Sau biến cố 30 tháng tư 1975, mẹ mất thêm một đứa con trai trong chuyến vượt biên và bị “hiến” một trong hai căn nhà trong đợt cải tạo tư sản của Việt cộng. Nhờ biết đạo, mẹ quan niệm của cải “cho người thì còn, cho con thì mất” nên mẹ phát tâm giúp người . Khi của cải tiêu tan, mẹ bình thản cho qua và bình tâm xây dựng. Tuổi già mẹ sống an nhiên trước những thịnh suy, còn mất, được thua… của cuộc đời. Mẹ qua đời sau một cơn bệnh bên cạnh chồng và các con từ Đức ,Mỹ, Canada trở về thăm mẹ. Các anh chị em tôi có được sự thành đạt ngày nay là nhờ tình thương và sự hy sinh của Mẹ. Cuộc đời mẹ là những bài học về “cho” hơn là “nhận”, là nghị lực và sự mạnh mẽ giúp chúng tôi vượt qua những dâu bể, thăng trầm và đứng vững trên đôi chân của mình.
Phùng Annie Kim
Tác giả may mắn có 2 bà mẹ "tốt" để hãnh diện khi nhớ đến. Tôi nghĩ đến những người không có mẹ để tuyên dương trong những lễ Mẹ hay kém may mắn hơn nữa, những người không bao giờ muốn nghĩ đến mẹ mình vì chỉ là sự tủi hổ.
Cái hay của bài viết là kể chuyện riêng tư đời mình nhưng tạo niềm suy nghĩ về đời sống.
Cám ơn chị Annie Phung.