Hôm nay,  

Thú Uống Cà Phê và tôi

03/07/201300:00:00(Xem: 194450)
viet-ve-nuoc-my_190x135Tác giả sinh năm 1959 tại Sài Gòn, đã viết một số bài trên báo chí Saigon trước 1975. Định cư tại Canada vào năm 1984 và sang Mỹ vào năm 1994, hiện làm việc trong lãnh vực điện toán.

Tôi bắt đầu uống cà phê từ sau năm lớp 11. Những năm sau 75, gia đình miền Nam nào cũng có những tin buồn: bố mẹ bà con anh em bị đi tù cải tạo (10 ngày thành mười năm!), thi đại học rớt vì không có lý lịch tốt, gia đình bị đánh tư sản mại bản vv. và vv..

Thời ấy, những chàng học sinh trung học dù không nói ra nhưng đứa nào cũng bất mãn và có những nỗi buồn về thân phận và gia đình.... Chúng tôi bắt đầu tập tành hút thuốc và uống cà phê. Vì không có nhiều tiền, nên chúng tôi chỉ uống ở những quán cóc. Quán thường là vài chiếc bàn ở Vỉa Hè và dăm chiếc ghế bày lèo tèo ở bên đường. Cà phê thì không biết làm bằng gì mà uống đắng nghét lúc đầu hơi khó chiu lâu dần rồi cũng quen. Ngồi trong quán cà phê chúng tôi bàn đủ thứ chuyện trên trời dưới đất từ chuyện vượt biên tới chính trị, triết học, tóan học. Nói chung là toàn những chuyện đội đá vá trời..... Mà sau này tôi thấy trong một bài nhạc của nhạc sĩ Anh Bằng diễn tả rất đúng tâm trạng của chúng tôi lúc đó: “Mộng với tay cao hơn trời....”

Có nhiều quán sau này bắt đầu để nhạc của những nhạc sĩ Pháp Anh Mỹ lừng danh như Lobo, Sylvie Vartan.... Nhạc sĩ Việt Nam như Phạm Duy, Ngô thụy Miên, Nhật Trường, Phạm đình Chương.... Những bài nhạc này đã len lỏi vào tâm hồn chúng tôi và tao cho chúng tôi những khoảnh khắc thơ mộng để khỏi phải nghe những bài nhac đỏ ca ngợi một chủ nghĩa mà không một ai ở miền Nam cảm thấy ưa thích và hát được.

Thỉnh thoảng có được tiền nhiều hơn chúng toi mới vô ngồi ở những quán có để nhạc "không lời" hay nhạc nhẹ để nghe Paul Mariat với những bài nhạc hòa tấu lừng danh như Love is Blue, La vie en Rose, Speak Softly Love, Serenade.

Rồi phong trào vượt biên ờ Sài Gòn dâng cao. Bạn bè tôi từ từ thưa thớt dần, kẻ ra nước ngoài đứa phải đi thanh niên xung phong, bộ đội. Ly cà phê nhiều khi đắng thêm khi nghe tin buồn của những đứa bạn bị bắt bớ hay chết khi vượt biển.

Rồi tôi cũng qua được nước ngoài. Ở Canda là nơi tôi tới định cư, mùa đông chỉ thấy tuyết trắng xóa. Tôi vừa đi làm vừa đi học và lại lê la đi uống cà phê với những đứa bạn mới sang tỵ nạn. Thưở ban đầu vì ít tiền, không có xe và vì đứa nào cũng phải lo dành giụm gửi quà về gia đình nên chúng tôi chỉ uống ở những quán Donut gần nhà trước khi đi làm (hút bụi, rửa chén ở down town).

Khi những đứa bạn đầu tiên có xe, chúng tôi kéo nhau đi cà phê bằng một chuyến xe. Bây giờ ngồi nghĩ lại thấy VN hồi thời đầu tị nạn thương nhau và đùm bọc nhau nhiều lắm. Ở chỗ tôi ở ít người Việt nên gặp ai là người Việt là tay bắt mặt mừng. Chúng tôi cũng cùng nhau làm báo ở Community College và tổ chức những buổi văn nghệ với ca sĩ thường là ở bên Cali đe ủng hộ chương trình cứu nguy người Vượt Biển và những hoạt động cộng đồng khác. Những ly cà phê sữa VN đã giúp đám học sinh lưu lạc thức trắng đêm vật lộn với những bài thi cuối khóa, những bài viết ngoại ngữ khó khăn sau những giờ làm việc mệt mỏi ở những tiệm ăn nhà hàng.

Rồi tôi qua Mỹ, định cư ở vùng Cali nắng ấm. Mất một thời gian rồi tôi cũng lò mò xuống thủ đô tỵ nạn của người Việt Cali. Tôi cũng tìm được một số quán cà phê mà tôi ưng ý. Ở quán Factory, tôi đã gặp anh nhac sĩ Trầm tử Thiêng, với những bài ca tràn đầy tình yêu quốc gia, dân tộc, nhạc sĩ Lê Uyên Phương và nhiều những nghệ sĩ khác... Tôi yêu thich Cali với khí hậu tuyệt vời, những quán cà phê với những cung cách riêng của nó. Bên ly cà phê sữa nóng, tôi ngồi nghe nhiềugiọng hát ngọt ngào với những bài hát yêu thích.

Tách cà phê cũng đã thay đổi nhiều. Những năm 80, bạn uống ly cà phê "với cái nồi ngồi trên cái ly" hay ly cà phê phin và có thể đếm từng giọt cà phê chảy xuống rồi mới pha đường vào ly cà phê của mình. Sau này để tiết kiệm thời gian cho cả chủ và khách, cà phê được pha sẵn với đường và sữa. Thời gian uống cà phê cũng ngắn đi nhiều so với VN, vì công việc và bận bịu với gia đình ngày cuối tuần.

Dạo này công việc bận rộn, nên tôi hay uống ở những quán cà phê Starbuck gần nhà, sở để viết những bài khảo luận. Bạn sẽ cảm thấy được những sự khác biệt nhiều trong những quán ca phê Mỹ và Việt Nam ở Cali. Từ cung cách phục vụ cho tới vị cà phê. Mỗi style có những đặc điểm riêng.

Câu chuyện bên ly cà phê cũng thay đổi nhiều từ chuyện bầu cử năm 2012, chuyện nhạc sĩ Việt Khang và tự do và công bằng cho Việt Nam cho tới tình hình kinh tế, thất nghiệp ở Mỹ. Đó là những đề tài nóng hổi bên những ly cà phê cũng nóng hổi và tràn đầy tình cảm khi nhắc tới những người đã ra đi và đã cống hiến nhiều cho quốc gia va cộng đồng (nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng, nhạc sĩ Nguyễn đức Quang, nhạc sĩ Trịnh Lâm Ngân và rất nhiều người.....).

Nếu bạn ở xa ghé Cali nhớ đừng quên ghé thăm những quán cà phê danh bất hư truyền như Factory, Mái tây Hiên (tên cũ là Mái Hiên Tây), hoặc những quán cà phê thường có giới ca nhạc tài tử lui tới như Gipsy, với những tay guitarist như James, Thăng, Khoa, Thắng và những giọng hát ngọt ngào Diễm, Linh, Hoàng.... hoặc cà phê ca nhạc Lạc Cầm, với các nhạc sĩ Sỹ Dự, Hoàng công Luận, các ca sĩ như Bích Vân, Đinh trung Chính...

Xin ngừng chuyện cà phê và nhắc bạn, có về thăm Little Saigon xin uống dùm tôi một ly, bạn nhé.

Nguyễn Mạnh Cường

Ý kiến bạn đọc
08/07/201320:46:23
Khách
Bài viết hay.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 844,386,352
Định cư tại Mỹ từ 1994, Phương Hoa vừa làm nail vừa học. Năm 2012, bà tốt nghiệp ngành dạy trẻ tại Chapman University khi đã 62 tuổi và trở thành bà giáo tại Marrysville, thành phố cổ vùng Bắc Calif. Với loạt bài về Vietnam Museum, "Bảo Tàng Cho Những Người Lính Bị Bỏ Quên," tác giả đã nhận giải chung kết 2014. và vẫn tiếp tục gắn bó với Viết Về Nước Mỹ. Sau đây, thêm một bài viết mới của tác giả.
Tác giả là một nhà giáo, nhà báo, nhà hoạt động xã hội quen biết tại Little Saigon. Tới Mỹ theo diện Hát Ô Một từ 1990. Suốt 28 năm qua, ông không ngừng viết văn viết báo tiếng Việt, tiếng Anh. Trong năm qua, có tới 7 cuốn sách mới. Góp sức với Viết Về Nước Mỹ, ông đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ từ những năm đầu, và vẫn tiếp tục thêm bài mới.
Tác giả là một dược sĩ tại Toronto. Với bài viết đầu tiên “Hai Bà Đầm,” ông đã nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ 2011. Ba năm sau, 2014, ông góp thêm bài “Hồi Ký Của Một Người Tên Ông.” Năm 2016, thêm bài “Bà Mẹ Tây” hay “Thằng Tầu Con của Mẹ.” Sang năm 2018, thêm bài thứ tư, “Đứa Con Lai...Hải Tặc.” Bài viết mới thứ 5 “Chuyện Tình...Hải Tặc” là phần kết của câu chuyện. Bạn đọc Viết Về Nước Mỹ trên Việtbao Online chỉ cần double click vào tên tác giả ở đầu bài, sẽ thấy bài cũ của cùng tác giả. Bài đăng 2 kỳ. Tiếp và hết.
Tác giả đã nhận giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2017. Ông hiện sống và làm contractor (hợp đồng) ngành hàng không ở Vail, Arizona cho quân đội Mỹ, và từng tình nguyện tới chiến trường Trung Đông, sống trong trại lính, làm việc theo một hợp đồng dân sự. Chuyện làm việc ở Trung Đông, bài đầu đã được phổ biến ngày 4 tháng 5. Sau đây là bài viết thứ hai, chuyện của một dân sự gốc Việt từ căn cứ Mỹ tại Afganistan.
Tác giả tên thật Huỳnh Thị Huệ, 69 tuổi, đến Mỹ năm 1991 theo diện HO. hiện đang là cư dân Downey, California. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà là chuyện đau thương có thật của gia đình, khi ntgười con trai tử nạn trên xa lộ vì bị một anh Mễ không giấy tờ say rượu lái xe.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ năm 2017. Bà sinh năm 1951 tại miền Bắc VN, di cư vào miền Nam 1954, là thư ký hành chánh sở Mỹ Defense Attaché Office (DAO) cho tới ngày 29 tháng Tư 1975. Vượt biển và định cư tại Mỹ năm 1980, làm thư ký văn phòng chính ngạch tại City of San Jose từ 1988-2006. Về hưu vào tuổi 55, hiện ở nhà chăm nom các cháu nội ngoại. Sau đây là bài viết thứ tư của bà.
Tác giả dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu, đã nhận giải bán kết 2002 với bài "Tiểu Hợp Chủng Quốc" kể về nơi cô làm việc, khi khủng bố tấn công nước Mỹ ngày 9 tháng 11 năm 2001. Bài viết gần đây là ký ức Mậu Thân của cô bé thời mới lớn. Và sau đây, thêm một bài viết mới.
Từ 2005, tác giả Hoàng Đức, một nhà giáo hưu trí tại Westminster, góp bài “Dodautre tại Mỹ” và nhận giải đặc biệt Viết về Nước Mỹ. Mười ba năm sau, 2018, thêm một bài mới của Hoàng Đức 2018. Theo tiểu sử do tác giả mới tự sơ lược, tại Việt Nam, 1963-1975, ông là Giáo sư Trung học Đệ nhị cấp. Sau 1975 là mười năm thất nghiệp. Công việc tại Hoa Kỳ từ 1985: High School Teacher; College Instructor, sau đó là Social Worker. Về hưu từ 2002. Mong ông tiếp tục viết và bổ túc địa chỉ liên lạc.
Tác giả cùng hai con gái tới Mỹ ngày 27 tháng Bảy năm 2001 theo diện đoàn tụ. Mười sáu năm sau, bà hiện có tiệm Nails ở Texas và kết hôn với một người Mỹ. Với sức viết giản dị mà mạnh mẽ, tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ năm 2017. Bài viết mới của bà là chuyện tấm hình một cô bé học trò 15 tuổi. Tấm hình từng qua tay kẻ trộm, trở thành bùa hộ mạng của một thuyền nhân, với những tình tiết éo le dài gần một đời người lưu lạc.
Tác giả từng nhận giải Viết Về Nước Mỹ 2015. Ông là cựu sĩ quan VNCH, giảng viên trường Sinh ngữ quân đội, cựu tù cải tạo. Ông cũng là tác giả sách "Hành Trình về Phương Đông" do "Xây Dựng" xuất bản năm 2010. Mới nhất, là cuốn "Within & Beyond" do tác giả viết bằng Anh ngữ và tự xuất bản. Sau đây, thêm một bài viết mới.
Nhạc sĩ Cung Tiến