Hôm nay,  

“Gái Lớn Ai Không Phải Lấy Chồng…”

29/07/201200:00:00(Xem: 89906)
viet-ve-nuoc-my_190x135Tác giả vào danh sách chung kết Viết Về Nước Mỹ 2012 với bài "Cô Em Cùng Dòng Khác Họ," kể về người con gái vị thuyền trưởng Đại Hàn từng cứu mạng các thuyền nhân Việt trên Biển Đông và là khách danh dự tại Little Saigon. Cô sinh tại Việt Nam năm 1975, định cư tại Hoa Kỳ từ 1994 khi đã 19 tuổi. Sau khi tốt nghiệp cao học hai ngành: Lịch Sử Truyền Khẩu & Cộng Đồng tại CSUF.; và Nhân Chủng Học tại Đại học Stanford, cô hiện đang hoàn tất chương trình tiến sĩ và tham gia nhiều sinh hoạt văn hoá cộng đồng. Trangđài Glassey-Trầnguyễn cũng là một nhà thơ, có ba tập thơ song ngữ Anh-Việt đã xuất bản. Sau đây là bài viết mới nhất.

Bà mẹ quê trong thơ Nguyễn Bính đã nén lòng mình để đưa con xuất giá. Bà giấu nỗi xốn xang trong lòng để cho con gái vu quy đi xây dựng hạnh phúc lứa đôi. Bao nhiêu bà mẹ Việt Nam đã thầm gạt lệ để chúc con một hôn nhân hạnh phúc?

*Cách ngăn trong mùa chiến

Tôi không quen nghe những bài tình ca buồn thảm, nhất là những khúc ca về sự chia cách của những kẻ yêu nhau trong thời chinh chiến. Tôi phẫn nộ với cái tái tê của người chinh phụ, bất đồng với cái vất vưởng của tình yêu trên cánh đồng chiến tranh vô tận. Tôi căm ghét sự cách ngăn giữa tình nhân vì một lý do ngoại cảnh.

Rồi có lúc, tôi nhận ra, mình rất sợ nghe những bài tình ca u uất ấy, vì tôi dễ mủi lòng. Tôi dễ dàng khóc khi nghe bài “Những Đồi Hoa Sim” hay trường khúc “Một Đời Áo Mẹ Áo Em.” Nỗi lòng người đi ra chiến trận, biết là nửa đầy hay nửa vơi của một vầng trăng khuyết? Kẻ ở lại còn bao nỗi đoạn trường.

Tôi tự hỏi, làm cách nào để Mẹ tôi vượt qua những tháng ngày chông chênh, khi Ba tôi phục vụ trong quân ngũ. Làm sao để Mẹ là một người yêu khi ý trung nhân bôn ba ngoài chiến ải, làm sao để Mẹ tập trung hoàn tất chương trình Sư Phạm và tốt nghiệp làm cô giáo, làm sao để Mẹ tìm đủ can đảm để đợi chờ khi Ba tôi bị đưa vào trại cải tạo? Làm sao để Mẹ không hóa dại hóa điên?

*Ngăn cách trong thời bán bình

Tại sao tôi gọi là thời bán bình? Tuy binh đao không diễn ra tại Hoa Kỳ, nhưng quê hương thứ hai của tôi vẫn đang tham chiến ở những nơi khác trên thế giới. Tôi có nhiều chị em bạn có người yêu hay phu nhân đi phục vụ tại các chiến trường xa, những chinh phụ của thế kỷ hai mươi mốt.

Ghét của nào, trời trao của ấy. Tôi cứ nghĩ mình thoát cái nghiệp này, nhưng không hẳn vậy. Tôi không nghe nhạc tình buồn, tránh những bài hát chia cách, thì tôi lại phải xa chồng hai năm trước và sau ngày cưới vì công việc của anh ở xa. Tôi thấy giận mình thật nhiều. Thời chiến chia cách đã đành. Trong thời bình mà phải xa nhau, thì nỗi đau càng day dứt.

Tôi nguyền rủa Manhattan mỗi ngày, đã giữ chồng tôi. Rồi đến lúc tôi chán, thấy việc nguyền rủa ấy chẳng có ý nghĩa gì, tôi buông lơi. Tôi để mặc cho tháng ngày trôi đi trong mong đợi. Tôi gia hạn cho anh phải về – tháng Giêng. Rồi tái gia hạn – tháng Tư. Rồi triển hạn – tháng Tám. Và lại ra tối hậu thư – tháng Chạp. Nhưng tháng ngày trôi đi, những hạn kỳ của tôi cứ bị “cháy giáo án.” Kinh tế trì trệ đã khiến anh không tìm được việc ở Quận Cam. Rồi một ngày, tôi nói hết sức thật lòng, rằng anh hãy đi cưới vợ ở bên ấy, vì tôi đã hết sức để chịu đựng. Anh khóc. Anh thấu nỗi lòng tôi.

Cho đến một ngày, anh dứt khoát để phố về hợp châu. Anh từ chức, trả nhà, dọn về bên tôi. Tôi qua giúp anh dọn nhà. Bạn bè trêu, nói là tôi đi rước chồng về. Tôi phải làm quen lại với cái cảm giác có chồng bên cạnh, phải học nếm cái hạnh phúc đoàn viên, phải trở lại cái đời sống hôn nhân bình thường. Tôi phục hồi nhân bản của cuộc sống hằng ngày. Tôi đã tái sinh.

Một người quen bảo với tôi, “Cháu đừng lo! Không ai chết đâu mà sợ! Cứ nói chồng cháu về! Nếu cần qua ở với Cô. Chúng ta cũng cần hơi ấm của nhau! Mình chia nhau tí rau tí muối cũng vui rồi!” Tôi vẫn đùa, nói rằng thà chúng tôi cùng đi ăn mày trên hè phố, còn hơn là được sống trong lầu son gác tía mà phải xa nhau.

Mẹ thấu lòng con

- Bữa nay ăn cơm với gì?

- Con ăn không vô.Dọn ra rồi lại cất đi.

- Hồi đó Mẹ cũng vậy. Ba đi cải tạo, Mẹ có ăn uống gì nổi đâu.

Mẹ không nói ra, nhưng Mẹ hiểu nỗi niềm của tôi. Mẹ thường hỏi thăm xem chồng tôi đã xin việc ra sao, và cầu nguyện cho ngày chúng tôi được đoàn viên. Mẹ chỉ mong chúng tôi được bên nhau. Tôi chợt xót xa, nghĩ đến những tháng ngày đìu hiu mà Mẹ đã khắc khoải chờ mong chồng, một nách năm con dại. Ai đã san sẻ với Mẹ những cô đơn sầu tủi? Ai đã trấn an Mẹ rằng, chồng của Mẹ vẫn còn sống, và sẽ có một ngày, Mẹ sẽ được đoàn tụ với chồng? Ai chứng kiến những giọt châu sa mà Mẹ ngày ngày đong đầy những bát cơm Mẹ ăn hoài không hết? Ai nói với Mẹ, như Mẹ nói với con hôm nay, rằng cơm lạnh canh thừa không chừa người chinh phụ?

Mẹ thấu hiểu nỗi ngoay ngoắc của tôi, Mẹ bảo tôi thường về thăm nhà cho bớt quạnh quẽ. Tôi chợt nhận ra, sự khắc khoải mong chồng của tôi đã kết liền cuộc đời tôi với Mẹ: Mẹ ngày xưa xa chồng vì chinh chiến, tôi ngày nay xa chồng vì công việc. Trở thành một người vợ, tôi gần với Mẹ hơn trong tâm tình của những người phụ nữ cùng trăn trở. Cái trăn trở của Mẹ đã qua – đã hơn ba thập niên. Nhưng cái tâm tình và những cái xao xuyến của thời ấy vẫn còn râm ran trong Mẹ. Nên Mẹ hiểu nhiều khi con gái của Mẹ phải cảnh chồng một nơi, vợ một nẻo. Mẹ biết tôi đã nhiều bữa cơm nuốt không trôi, nên mỗi lần tôi về thăm nhà, Mẹ đều nấu những món tôi thích và lần nào, Mẹ và cô em út cũng chuẩn bị hành lý cho tôi thật nhiều: cá khô, đồ xào, trái cây, rau cải. Tôi chọc cô em:

- Lúc này em giống Mẹ rồi! Nhét giỏi quá!

Em tôi không trả lời, chỉ dứt khoát không cho tôi để lại món nào. Tôi cười, nói mỗi lần về thăm nhà, là tôi tự thăm nuôi mình, vì lần nào trở lại ký túc xá, hành lý của tôi cũng đong đầy những món ăn tinh hảo mà Mẹ và em tôi đã chăm chút gói cho. Hôm nào chị tôi rãnh, cũng nấu canh chua và kho thịt, ép tôi đem theo. Cứ đà này, tôi sẽ hư mất! Ăn ngon quen miệng, mai mốt lỡ… quên cách nấu ăn thì sao? Chồng tôi về, sẽ dắt tôi về nhà Mẹ, tự thăm nuôi tiếp!

*Còn thương rau đắng mọc sau hè

Mẹ trồng rau đắng trong cái hồ nhỏ.Rau đắng phải có nước nhiều.Ở quê tôi, chỉ những ai nghèo lắm mới ra đồng hái rau đắng về luộc chấm nước mắm.Những cánh đồng phèn chua đất mặn, loáng thoáng những vạt rau đắng xanh non.Ngày đó, người dân quê tôi nghèo khó quá, có nhiều người chỉ mong đủ gạo nấu cơm ngày hai bữa để đi làm ruộng. Rau đắng chỉ có thể luộc, vì làm gì có dầu ăn và có tỏi để xào? Mẹ trồng rau đắng, như để tưởng nhớ những hương vị quê hương mà ngày xưa, tuy chúng tôi không đến nỗi phải cam chịu, nhưng cũng là một ký ức khó quên.Tôi hay cười khi nghĩ về sự đổi đời của những gì thuộc về quê hương trong hoàn cảnh sống xa nhà.Rau đắng – có mấy ai nghĩ nó sẽ đắc như vàng hay quý như đinh hương ở xứ người? Ở Việt Nam, rau đắng mọc đầy đồng. Ở Hoa Kỳ, người ta phải đi mua từng lọn nhỏ.

Còn thương lắm rau đắng mọc sau hè. Chái bếp ngày nào của quá khứ đã được Mẹ đưa vào quỹ đạo của những bếp ga thời nay, cho con một cõi tâm thức và yêu thương.Để rau đắng mọc đầy trên thềm ký ức, đưa gió đông về sưởi ấm mái hiên của những đêm con phải xa chồng.Cách ngăn nào cũng có Mẹ sẻ chia.Ấm lạnh nào cũng được Mẹ vun vén. “Gái lớn ai không phải lấy chồng…” nhưng không có người vợ trẻ nào trồng cấy mảnh ruộng mới của mình mà không cần đến Mẹ. Trong nhiều cách, Mẹ vẫn dzần công cho con trong vụ mùa mới, để con vào đời và thực sự lớn khôn.

Nàng Bân đan áo cho chồng. Mẹ dệt hạnh phúc đời hôn nhân của con.

Trangđài Glassey-Trầnguyễn

Ý kiến bạn đọc
23/08/201204:41:08
Khách
Bây giờ bên nhau là tốt rồi. H củng trải qua nên hiểu tâm trạng này của TD
01/08/201220:25:21
Khách
Đoạn trường ai có qua cầu mới hay.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 844,364,956
Tác giả sanh năm 1943 tại Cân thơ - Bác sĩ thú y, giảng dạy tại Đại Hoc Cần thơ trước 75 - Cùng gia đình vượt biên năm 1980. Học lại và làm việc cho cơ quan Canadian Food Inspection Agency từ 1985 đến ngày hưu trí năm 2008. Bài đầu tiên Viết Về Nước Mỹ, Đất Lành Chim Đậu nhận giải Vinh Danh Tác giả năm 2007. Sau 10 năm tiếp tục góp bài cho Việt Báo, tác giả cho biết “Vì lý do sức khỏe bất ngờ, xin chào tạm biệt tất cả bạn đọc để tĩnh dưỡng. Và đây là bài viết cuối cùng của ông: Chuyện hai mùa Vu Lan 2016-2017, con trai lái xe hàng ngàn dặm về cùng bố lát gạch sân đậu xe và tu sửa ngôi nhà gia đình. Việt Báo Viết Về Nước Mỹ trân trọng cám ơn Bác sĩ Nguyễn Thượng Chánh. Kính chúc ông và gia đình an vui, mạnh khỏe.
Tác giả định cư tại Pháp nhưng thường lui tới với nước Mỹ, tham gia Viết Về Nước Mỹ từ tháng Ba 2010. Họp mặt giải thưởng năm 2011, bà đã bay từ Paris sang California để nhận giải Vinh Danh Tác Giả -thường được gọi đùa là giải Á Hậu. Sau đây, thêm một bài mới của tác giả.
Tác giả là nhà báo quen biết trong nhóm chủ biên một số tuần báo, tạp chí tại Dallas. Ông đã nhận giải Vinh Danh VVNM 2016, đồng thời, cũng là tác giả Viết Về Nước Mỹ đầu tiên có nhiều bài đạt số lượng trên dưới một triệu người đọc. Bài mới của là một tự sự gợi nhớ nhiều kỷ niệm.
Với bài “Hành Trình Văn Hóa Việt tại UC Irvine”, tác giả đã nhận Giải Việt bút Trùng Quang 2016. Ông tốt nghiệp cử nhân về Ngôn Ngữ Học tiếng Tây-Ban-Nha tại UC Irvine. Sau 5 năm rời trường để theo học tại UCLA, tốt nghiệp với hai bằng cao học và tiến sĩ về ngành Ngôn Ngữ Học các thứ tiếng gốc La-Tinh, ông trở lại trường cũ và trở thành người đầu tiên giảng dạy chương trình tiếng Việt, văn hoá Việt tại UC Irvine từ năm 2000 cho tới nay.
Tác giả tên thật Trần Năng Khiếu. Trước 1975 là Công Chức Bộ Ngoại Giao VNCH. Đến Mỹ năm 1994 theo diện HO. Đã đi làm cho đến năm 2012. Hiện là công dân hưu trí tại Westminster. Tham dự VVNM từ tháng 8/2015. Đã nhận giải đặc biệt 2016. Vừa nhận thêm giải danh dự VVNM năm 2017. Sau đây là bài mới của tác giả, vẫn với cách viết cẩn trọng, chu đáo, sống động.
Trước 1975, tác giả là một hạm trưởng hải quân VNCH, sau đó là 10 năm tù cộng sản, và định cư tại Mỹ theo diện H.O. Dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu tiên, ông đã nhận giải bán kết 2001, từ 9 năm qua đã là thành viên Ban Tuyển Chọn Chung Kết, và vẫn tiếp tục góp bài mới.
Tác giả là một cây bút nữ, cư dân San Jose, đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Sang năm thứ 18 của giải thưởng, Lê Nguyễn Hằng nhận thêm giải Vinh Danh Tác Giả, với bài viết về “Ba Thế Hệ Tuổi Dậu” và bài “Từ Độ Mang Ơn”. Bài mới của tác giả kể về cuộc họp mặt của các cựu sinh viên Quốc Gia Hành Chánh và chuyến đi 5 ngày trên du thuyền Carnival Inspiration.
Tác giả từng nhận giải Viết Về Nước Mỹ 2015. Ông là cựu sĩ quan VNCH, giảng viên trường Sinh ngữ quân đội, cựu tù cải tạo. Ông cũng là tác giả sách "Hành Trình về Phương Đông" do "Xây Dựng" xuất bản năm 2010. Mới nhất, là cuốn "Within & Beyond" do tác giả viết bằng Anh ngữ và tự xuất bản. Sau đây, thêm một bài viết mới.
Tác giả là cư dân Buffalo, NY. đã dự Viết Về Nước Mỹ từ hơn 10 năm trước Bài viết đầu tiên của ông là "Kinh 5 Dị Nhân" kể về vùng quê, nơi có hơn 1000 người -phân nửa dân làng- vượt biên mà có tới hơn 400 người tử vong... Hiện ông đang là cư dân Orlando, FL. và bài mới là chuyện về một số người thành công, một đề tài mà ông đã được mời nói chuyện tại Đại Học Buffalo.
Định cư tại Mỹ từ 1994, Phương Hoa vừa làm nail vừa học. Năm 2012, bà tốt nghiệp ngành dạy trẻ tại Chapman University khi đã 62 tuổi và trở thành bà giáo tại Marrysville, thành phố cổ vùng Bắc Calif. Với loạt bài về Vietnam Museum, "Bảo Tàng Cho Những Người Lính Bị Bỏ Quên," tác giả đã nhận giải chung kết 2014. Với mỏ vàng trên sông Yuba, Marryville khởi thủy từng là thành phố của dân đào vàng. Thời nay, du khách và cư dân tại Marryville vẫn lai rai lượm được vàng cục, có du khách lượn cả cục kim cương trị giá nửa triệu mỹ kim. Đó là chuyện có thật, đề tài của tác giả trong bài viết mùa Lễ Tạ Ơn năm nay.
Nhạc sĩ Cung Tiến