Hôm nay,  

Tự Truyện Của Lương Bịp

13/11/201000:00:00(Xem: 202664)

Tự Truyện Của Lương Bịp

Tác giả: Sương Nguyễn
Bài số 3040-28340-vb7111310

Trước 1975, tác giả là giáo sinh trường Sư Phạm Qui Nhơn. Sau 1975 là giáo viên lưu dụng. Vượt biển sang Mỹ năm 1983, làm nghề bán tạp hoá tại Houston. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà là một chuyện kể thể hiện niềm tin ở phước báu cho những người tử tế, theo tinh thần ở hiền gặp lành. Bài viết mới của bà là một truyện ngắn cảm tác từ nhiều kiểu làm ăn “hiện đại”, tên mọi nhân vật chức vụ và địa danh đều chỉ là tưởng tượng, mọi trùng hợp đều ngoài ý tác giả.

***

Trên chiếc du thuyền nhỏ, trôi bềnh bồng trên biển Ấn Độ dương, gần bờ biển East  London của miền nam Phi Châu, ông Lương nằm dài trên boong thuyền tắm nắng, bên cạnh ông , vợ ông, một phụ nữ người bản xứ, nước da ngâm đen xinh đẹp ,đang làm massage cho ông. Ông nằm sấp xuống, mắt lim dim tận hưởng giây phút thư giản, thoải mái của hai bàn tay dịu dàng và điêu luyện của vợ ông đem lại. Thốt nhiên ông cất tiếng nói, một ngôn ngữ lạ mà vợ ông không hiểu  gì hết, bà ngơ ngác nhìn ông..
Đã lâu  không có người đồng hương nào nói chuyện với anh, anh thèm nói tiếng Việt quá. Hôm nay anh muốn kể cho em nghe về “thành tích” bịp bợm của anh mà nếu em hiểu, chắc em sẽ không bao giờ muốn sống gần anh nữa.
Thành tích của ông Lương  bắt đầu từ thuở còn là nhóc tì. Lên tám mẹ dẫn đi chùa, trong lúc mọi người xì xụp lễ Phật, nhóc quan sát đống giày dép để trước cửa chánh điện. Chờ mẹ lễ phật xong là nhóc chọn ngay một đôi giày sandal đẹp nhất mang vào, để đôi dép của mình lại. Trời tối cho nên mẹ nhóc không để ý đến việc nhóc làm. Ai bảo ba nhóc đặt tên cho nhóc là Lương, ba bảo là chờ mẹ sinh em bé trai ba sẽ đặt tên nó là Thiện, nhưng chờ mãi thằng Thiện chẳng ra đời, chỉ có thằng Lương tung hoành một cõi.
Lên mười,  nhóc đã biết trổ tài dụ người ta, mánh mum , lươn lẹo. Muốn dụ con nít hàng xóm, phải có chút đỉnh tiền, nhóc  dùng một cái móc bằng dây thép nhỏ, khèo hũình binh của chị  tớ, cẩn thận lấy tiền lớn, đổi tiền nhỏ bỏ vào cho chị Mai không biết. Nhócù dùng tiền cá độ với bạn bè, một bên là tiền, một bên là đồ chơi, nhóc đào một cái lỗ thật sâu dưới lớp đất sét, lỗ rộng vừa vặn một trái banh nhựa và sâu bằng hai sải tay của con nít. Nhóc cá nếu đứa nào lấy trái banh được sẽ thắng. Bạn học làm đủ mọi cách nhưng không lấy được trái banh ra khỏi lỗ, đến phiên nhócù, nhóc chạy vào nhà lấy một ca nước đổ vào lỗ, trái banh nổi lên. Nhóc chiến thắng vẻ vang, ôm một đống đồ chơi về nhà.
Ba của nhóc mỗi lần vào phòng tớ, thấy đống đồ chơi trong phòng, không mất tiền mua, Ông chép miệng thở dài: Cha mẹ sinh con, trời sinh tính! Không biết lớn lên nó thành cái giống gì đây"
Một ngày kia, lang thang ở trong chợ, nhóc chen vào trong đám đông đang chơi bài ba lá. Một thanh niên, cỡ ngoài hai mươi tuổi, với xảo thuật tài tình ba con bài lấy hết tiền mấy bà có máu mê cờ bạc đỏ đen. Nhóc lẻo đẻo theo  anh chàng xin làm đệ tử, ra mắt bái sư phụ với mớ tiền trong túi của nhóc. Sau một tuần lễ, nhócù xốc bài, đổi bài tráo bài nhuần nhuyễn còn nhanh hơn là sư phụ. Thế rồi từ đó mỗi khi đi học về, nhóc dụ con nít hàng xóm chơi bài ăn hết mớ tiền cắc của tụi nó. Cứ mỗi lần tết đến là nhóc trúng mánh, nhón sạch hết tiền của bạn bè, cha mẹ ,họ hàng. Ai cũng nói là nhóc có tài cờ bạc.
Sau đây là thành tích do chính ông Lương tự thuật.

*
Năm 17 tuổi, tôi theo chị Mai vượt biển sang Mỹ. Tính nào tật đó, trong lúc bạn bè lo đi học chuyên cần để lấy bằng cấp, tôi học tà tà, chỉ cần đủ điểm để  tốt nghiệp trung học. Tôi chính thức bước vào nghề mánh mung ở tuổi 19. Tôi bắt mánh với các dealer xe cũ, chuyên môn mua xe đấu giá hoặc xe ăn cắp về cạo bỏ số sườn xe, sơn lại màu khác, mua title của xe bị đụng ở junk car cùng một model, một năm rồi bán lại cho khách hàng. Tôi là người trung gian giữa người mua và kẻ bán, những người này không muốn ra mặt để bán xe vì sợ tù tội. Còn người mua cứ tưởng mình đã mua lầm xe bị đụng về làm lại. Tôi đăng báo VN, dùng nhiều tên và số điện thoại khác nhau và địa điểm giao xe thông thường là trước những căn nhà trống cắm bảng bán, mà tôi đóng kịch giống như là nhà của mình.  Mua bán kiểu nầy không khấm khá gì mấy, tôi chuyển sang nghề địa ốc.
Tôi theo học một lớp về Real Estate ở trường Đại Học Cộng Đồng. Sau đó, tôi lên mạng Loop net, chọn một số building, nhà cửa, đất đai thích hợp với người Á Đông download xuống rồi đăng báo VN, nếu có người Viêt nào gọi hỏi mua, tôi liên lạc với broker, tự xưng là đại diện người mua để xin huê hồng. Một năm tôi trung gian bán được hai ba cái building, bốn năm cái nhà là kiếm được mấy chục ngàn chưa kể số xe hơi tôi bán đươc cỡ chừng 10 đến 15 chiếc xe mỗi năm. 
Tuy làm ăn khấm khá nhưng số tiền đem về cũng không làm cho tôi giàu có gì. Tôi mơ ước đươc trở thành triệu phú bằng đường tắt vì thế tôi phác họa một kế hoạch "khổ nhục kế" để đạt được  ý nguyện của mình.
Tôi mở một company ma "hữu danh vô thực". Hai năm đầu, tôi khai thuế lợi tức làm hơn 100 ngàn một năm. Nhờ vậy tôi mới xin được 10 credit line của 10 nhà bank khác nhau. Mỗi credit line cho company, tôi có thể mượn được là 50 ngàn. Tôi gầy lòng tin của các nhà bank bằng cách trả tiền sòng phẳng, đúng kỳ hạn.
Nhân một chuyến du lịch sang Âu Châu, tôi có mua được một cái máy photo copy, nhỏ gọn và đep, không thấy bán bên Mỹ. Tôi thử máy tại tiệm bằng tờ 100 đô trong bóp tôi, bản copy in ra giống hêt như tiền thật. Tôi nghĩ sau này sẽ có dịp để dùng nó.
Gần đến giờ Z, tôi bắt đầu thực hiện kế hoạch. Tôi mua sẵn một vé máy bay về VN vào buổi chiều, không cho ai biết là tôi chuẩn bị đi xa. Tất cả mọi việc tôi làm tôi đều giữ bí mật  ngay cả bạn gái của tôi cũng không biết tôi làm nghề gì, gia đình tôi như thế nào. Trong những tháng gần đây, mỗi lần chồng tiền cho người bán xe cũ, tôi đếm tiền giả bô thiếu 100 đô rồi đến chỗ máy in , bấm máy lấy một tờ, khi quay người trở lai, tôi đánh tráo bằng tiền thật bằng xảo thuât tráo bài 3 lá hồi nhỏ. Người đại diện mở to mắt nhìn tôi, cầm tờ bạc mới lật qua lật lại. Tôi in một tờ thứ hai cho hắn và bảo với hắn là tiền giả giống hệt như tiền thật, không ai phát hiện ra được.
Ngày hôm sau, tôi ngồi chờ bên điện thoại. Phôn reo vang. Cá đã cắn câu! Ông chủ của Dealer xe cũ muốn đến gặp tôi. Tôi biểu diễn thật nhanh lẹ, lần nầy tôi in ra 5 tờ rồi cho hết ông chủ. Tôi nói là máy in chỉ được mỗi lần có 5 tờ, phải chờ 4 giờ sau mới in lại được, nếu in trước 4 tiếng màu sắc sẽ không rõ và đẹp như tiền thật. Ông chủ gạ mua, tôi ra giá 500 ngàn đô bằng money orders, ông ta đồng ý và hẹn ngày giờ để giao tiền
Giờ Z đã đến , tôi đến 10 ngân hàng rút hết tiền trong credit line, rồi chuyển hết sang trương mục của tôi ở Thụy Sĩ trong cùng một buổi sáng.
Buổi chiều trước giờ lên máy bay 2 tiếng, tôi hẹn với ông chủ  dealer chồng tiền bán máy. Trước khi giao máy và một thùng giấy in đã cắt sẵn giống như khuôn khổ của tờ giấy bạc , tôi in ra 5 tờ bạc -dỉ nhiên lại trổ tài tráo vào 5 tờ bạc thật- rồi đưa  ông chủ và dặn 4 giờ sau mới xài đươc. Tôi giả dạng thành nhân viên vệ sinh trong chung cư và ra khỏi chung cư bằng cửa sau. Một giờ sau tôi đã có mặt trên máy bay.Trong thời gian chuyển máy bay ở Los, tôi đến nhiều địa điểm chuyển ngoại tệ tại phi trường để chuyển tiền về trương mục của tôi qua chi nhánh ngân hàng Thụy Sĩ ở Sài Gòn. Tôi thở phào nhẹ nhỏm khi máy bay cất cánh bay ra khỏi không phân của nước Mỹ. Tôi về VN an toàn dưới danh nghĩa là một doanh nhân về đầu tư tại VN.
Để đề phòng có thể bị dẫn độ về Mỹ về tội lường gạt ngân hàng, tôi đăng ký  khách sạn Đệ Nhất bằng hộ chiếu của mình nhưng không ở đó mà thuê một chung cư nhỏ ở Thị Nghè dùng chứng minh nhân dân cũ. Tôi liên hệ “móc ngoặc” với công an khu vực, ngỏ ý là mình muốn có hộ khẩu ở Sàigon và cần được giúp đỡ. Một tháng sau tôi có  2 thẻ chứng minh nhân dân của 2 người đàn ông bằng tuổi tôi, độc thân, không có thân nhân, đã chết nhưng họ không khai tử, họ dùng giấy tờ cũ, lột bỏ hình ra và thay bằng hình của tôi vào, họ bán chúng với một số tiền lớn. Tôi dùng tên một người để làm ăn tại VN, dùng tên người kia để xin hộ chiếu đi du lịch nước ngoài.
Muốn làm ăn được dễ dàng thuận lợi, tôi nhờ văn phòng môi giới kiếm cho tôi một cô vợ trẻ đẹp, giỏi ngoại ngữ, khôn khéo biết ngoại giao nhưng thật thà, đôn hậu. Tiêu chuẩn này nếu ở Mỹ, tôi sẽ không bao giờ tìm được. Rốt cuộc họ cũng tìm được cho tôi một cô gái như ý tôi mong muốn,vừa đẹp vừa đoan trang nhu mì tên là Hương.  Hương nhà nghèo cho nên nàng phải vừa đi học trường Đại Học Ngoại Ngữ vừa đi làm trong ban tiếp tân của nhà hàng lớn ở Sàigon. Suốt ngày phải tiếp xúc với người ngoại quốc cho nên Hương rất giỏi ngoại ngữ và biết cách xã giao , thu phục cảm tình khi nói chuyện với họ.
Tôi bây giờ tên là Thiên. Một hôm cùng với Hương đi nghe nhạc ở phòng trà, tôi ngồi quan sát số lượng khách đông đảo, ồn ào của vũ trường tôi nảy ra ý định là sẽ đầu tư vốn liếng và kinh doanh vào ngành ca nhạc và ăn uống ở đây. Về nhà tôi bàn thảo kế hoạch  thuê mặt bằng, thuê kiến trúc sư  trang trí nội thất, mời ca sĩ, ban nhạc với Hương. Có một điều tôi không bàn với nàng là tất cả những kế hoạch của tôi chỉ là món mồi nhử, không phải đi kiếm tiền lẻ của khách hàng.
Tôi cùng với vợ đi tìm địa điểm, tôi chọn những mặt bằng gần khách sạn năm sao, gần khu du lịch, giải trí như Đầm Sen, Kỳ Hòa, gần những danh lam thắng cảnh như ở Hà Tiên, Phú Quốc, gần làng Việt Kiều, gần khu nhà giàu, khu cán bộ cao cấp. Sau khi chọn được chỗ thích hợp, tôi để nàng đứng tên trên hợp đồng thuê mướn, rồi cùng kiến trúc sư vẽ ra họa đồ kết hợp Âu Á, Mỹ Việt bên trong nhà hàng ca nhạc, vừa sạch sẽ, bóng loáng như ở Mỹ, vừa thơ mộng trữ tình như đang ở  đảo Tahiti, Hawaii.
Nhà hàng của tôi rộng lớn, có sức chứa đến 500 thưc khách. Có sân khấu nổi có hàng dừa, có mái tranh giả, có sương khói, cảnh bồng lai trong tiệm. Muốn ăn, muốn uống thứ gì cũng có cả, sơn hào hải hải vị, rượu quí không thiếu. Muốn cờ bạc cũng có, tôi trang bị dọc theo tường là những máy game như ở Las Vegas. Đặc biệt là những nữ tiếp viên đẹp như tiên giáng trần với váy xẻ cao làm cho thực khách điên đảo qua mỗi bước chân đi, ngực nhún nhẩy dưới ánh đèn mờ ảo.
Trong vòng hai năm 5 phòng trà kết hợp vũ trường với nhà hàng có tầm vóc quốc tế ra đời: Thiên Thai, Dư âm, Bồng Lai Cảnh, Dạ Lan Hương, Ngọc Lan. Những nhà hàng của tôi chỉ phục vụ khách ngọai quốc, Việt kiều, những người giàu có vì giá cả quá đắt, một bữa ăn bằng một tháng lương của cán bộ, công nhân viên nhà nước, giá một ly cà phê bằng một ngày chợ của một gia đình. Tôi thiết lập một hệ thống hành chánh để quản lý năm nhà hàng. Đứng đầu nhất là vợ tôi, dưới quyền vợ tôi là 5 ông giám đốc, có nhiệm vụ điều hành nhân viên và thu tiền mỗi ngày đem nộp cho vợ tôi, vợ tôi ghi xuống sổ , rồi đem tiền bỏ vào ngân hàng. Tôi giữ phần thanh toán lương cho các nhân viên, ca sĩ, ban nhạc qua vợ tôi và thanh toán tất cả mọi chi phí khác của nhà hàng. Không ai biết tôi là ai, cũng không ai biết mỗi tháng nhà hàng chi ra bao nhiêu. Ngoài tôi ra, tất cả mọi người ngay cả vợ tôi cứ tưởng rằng nhà hàng có một số thu nhập đáng kể.
Bước qua năm thứ ba, số khách đến nhà hàng đạt đến mức tối đa, đông nghet người, nhìn đâu đâu cũng thấy đầu đen chen lẫn với những mái tóc vàng óng ánh của khách ngoại quốc. Lúc bấy giờ tôi mới nói với vợ tôi là tôi muốn chuyển sang đầu tư đất và bất động sản. Nhờ vợ tôi phát động phong trào, cổ võ rỉ tai bán cổ phần từ giám đôc đến nhân viên, từ nhân viên đến khách hàng, từ khách hàng đến cán bộ giàu có, ai ai cũng hưởng ứng nhiệt tình. Mỗi tiệm là 100 cổ phần, mỗi cổ phần là 5 ngàn đô, có người bỏ tiền ra mua 10 cổ phần một lúc. Bao nhiêu tiền thu vào tôi đầu tư hết vào đất đai ở quanh bờ biển Nha Trang và các vùng cao nguyên Di Linh, Lâm Đồng, Bảo Lộc, Đà Lạt.


Ngày đầu tiên nhóm họp cổ phần của công ty nhà hàng kiêm phòng trà, tôi mua vé máy bay trốn lên Bảo Lộc với gia đình nhà vợ. Tất cả mọi cổ phần đều ngã ngửa ra sửng sốt là nhà hàng không có lời vì số chi tiêu quá nhiều, nhất là chi ra cho các ca sĩ và các ban nhạc, nhì là tiền trả thuê mặt bằng quá mắc, còn cao hơn là giá thuê bên Mỹ.
 Lúc bấy giờ giá trị đất đai tăng lên gấp ba lần lúc tôi mới mua. Tôi ra mặt đứng ra xây làng Việt kiều ở Di Linh, Đà Lạt, Nha Trang bán lại lời gấp đôi, tôi khuyên vợ tôi ẩn mặt và thay đổi cách ăn mặc, kiểu tóc để tránh gặp người quen, sợ bị trả thù.  Hương bây giờ trong giống như cô gái Thái, mặc xà rông, đầu quấn khăn suốt ngày ở ngoài vườn lo trồng đậu, trồng cà, trồng hoa.
Số tiền tôi bỏ trong ngân hàng Thụy Sĩ đã hơn 10 triệu bằng cách chuyển chui qua các company có hàng xuất cảng qua Mỹ hay Âu Châu. Tôi vẫn chưa bằng lòng, phải tìm cách nào đề tiền nở ra tiền, gấp hai, gấp ba, gấp bốn, gấp năm lần tôi mới  thỏa mãn.
Cho đến một ngày tôi gặp một người Mỹ trắng ba lô, nói tiếng Việt rất sõi, còn biết chưởi thề và nói tiếng lóng trong một quán cà phê bình dân ở Đà Lạt. Tôi ngồi nhìn anh chàng một lát rồi đến ngồi cùng bàn, hỏi chuyện làm quen. Tôi hỏi nếu anh ấy muốn ở lại VN thì tôi sẽ mướn anh ấy làm việc cho tôi. Anh ta hỏi tôi là làm việc gì, tôi bảo là làm ông chủ của tôi và lương trả theo khả năng đóng kịch của anh. Anh ta trố mắt nhìn tôi, tưởng tôi là một thằng khùng. Tôi cắt nghĩa là tôi muốn làm ăn bằng cách góp vốn, cổ phần nhưng người trong nước họ không tin người Việt vì sợ bị lừa, chỉ tin người ngoại quốc thôi.
Tôi đem ông Mike về nhà, cho ông ta tắm rửa sạch sẽ cạo râu, cắt tóc, mua đồ vest cho ông ấy mặc. Vợ tôi dạy cho anh ta phong cách lịch sự của người giàu, có địa vị trong xã hội ở nơi công cộng, trước đám đông, trong bữa ăn hay tiệc tùng. Ông Mike và tôi chỉ chờ ngày xuống núi....
Tôi và Mike làm một chuyến du lịch dài từ Nha Trang đi Đà Nẵng bằng xe hơi để tìm địa bàn hoat động. Ghé ngang Qui Nhơn, một thành phố nhỏ hiền hòa nằm dọc theo  bờ biển, nước trong xanh, gió thổi lồng lộng, mát rượt. Tôi nhìn địa hình và địa thế rất giống như khu giải trí Kema bên Mỹ, hình dạng núi và bờ biển là  "Song long chầu hột châu" phong thủy rất tốt để thực hiện kế hoạch của mình. Trước khi rời khỏi nhà, tôi đã để lại phone cầm tay của Mike và một cuộn tape thu lại những mẫu đối thoại khác nhau trong  office, tôi dặn Hương hễ ai gọi thì phải mở tape ra trước, sau đó trả lời bằng tiếng Anh: Đây là văn phòng của Mike, giám đốc công ty Happy  Entertainnment, ông chủ của tôi đã công du ở hải ngoại. Tôi có thể chuyển tin cho ông ấy được không" Bối cảnh là tiếng ồn ào nói chuyện của một company bận rộn. Tôi và Mike chuẩn bi gặp mặt giám đốc Sở Kế Hoạch và Đầu Tư ngày hôm sau.
Miếng cau, miếng trầu mở đầu câu chuyện, tôi ra mắt ông giám đốc bằng hai chai rượu ngoại và một hộp kẹo chocolate. Mike tự giới thiệu mình là một giám đốc công ty Happy giải trí bên Mỹ, công ty thứ hai đứng đằng sau Walt Disney Company, muốn tìm thị trường sang châu Á bằng cách liên hợp với chính quyền sở tại thành lập một trung tâm giải trí lớn nhất Việt Nam. Vốn đầu tư của company là 10 triệu đô chiếm 50% kinh phí xây cất 50% còn lại là vốn cổ phần của nhân dân thành phố, tiền lời sau khi trừ chi phí sẽ chia đều cho hai bên. Ông trưởng phòng tiếp chúng tôi rất niềm nở và hứa sẽ cho chúng tôi biết kết quả. Tôi,dưới danh nghĩa là thư ký riêng của ông chủ, mở cặp táp đưa cho ông giám đốc bản dự thảo của công trình cùng với card visit của ông chủ có tên là Mike và địa chỉ bên Mỹ.
Sau khi đọc xong bản dự thảo, ông giám đốc hân hoan chấp thuận và hứa sẽ dễ dãi trong việc cấp giấy phép nếu tôi để ông ta là người mua 10 cổ phần đầu tiên, mỗi cổ phần là 1000 đô. Tôi hiểu ý làm giấy tờ cho ông trước nhất. Vốn khởi phát tôi bỏ ra là 10 triệu đô, cho nên tôi giữ phần chi tiêu. Sau khi công trình được hoàn tất phân nửa, sẽ công khai cổ động góp vốn.
Nhờ sự hổ trợ của nhân viên làm vệ sinh và công an địa phương, tôi phát động phong trào làm sạch bờ biển và đường phố. Mỗi người đi tắm biển phải đi lượm rác trước rồi mới được tắm, người nào xả rác sẽ bị phạt 50 ngàn, người công an viết giấy phạt sẽ được hưởng 10% huê hồng. Từ khi có chiến dịch làm sạch thành phố này, biển Qui Nhơn trong xanh, không có một cọng rác.  Tôi bắt tay vào công trình kiến thiết và xây dựng dưới sự trợ giúp của các kỷ sư và  chuyên viên kỹ thuật đến từ Singapore. Thành phố hầu như rộn rịp hẳn lên, công trình của tôi đã tạo ra nhiều công ăn việc làm cho hơn hai ngàn công nhân xây dựng, họ dùng tiền lương mua sắm, ăn uống làm cho chợ búa tấp nập hơn bao giờ hết.
Trước hết tôi làm một cái cầu tàu bằng phao ở giữa biển. Ở đây sẽ là nền cho trò chơi bay trên không trung bằng ca nô kéo dù chạy quanh cầu tàu giống như ờ Thái Lan. Thứ đến tôi thiết lập một đường dây cáp, đóng trụ cột ở đáy biển kéo những hộp sắt có cửa bằng kiếng, chở khách từ bờ biển QN đến đảo Cù Lao Xanh. Ở đảo, tôi cất những nhà sàn bằng tranh dọc theo mé biển, bên trong có đầy đủ tiện nghi dành cho du khách muốn ngủ lai. Giữa đảo là một khoảng đất trống rộng lớn, dùng để đốt lửa trại. Phần còn lại, tôi giao cho kiến trúc sư, kỷ sư và chuyên viên người ngoại quốc đảm nhiệm. Sau hai năm, khu giải trí của tôi đã hoàn tất được phân nửa gồm có: Lâu đài Bạch Tuyết và bảy chú lùn, vườn địa đàng, ngôi nhà ma, ngôi nhà búp bê, xe lửa trượt nước....
Nhận thấy công trình xây cất khu giải trí đại qui mô của tôi quá hoành tráng và lộng lẫy, cho nên khi tôi phát động góp vốn, tất cả những người giàu có đều hưởng ứng nồng nhiệt khiến tôi và Mike làm giấy tờ bán cổ phần mỏi cả tay, mệt  đến phờ người. Thế là kế hoạch của tôi đã đi vào quỹ đạo, tôi thấy được ánh sáng le lói chiếu ở cuối đường hầm. Tôi bí mật rút vốn lại từ từ và chuyển vào ngân hàng Thụy Sĩ. Cuối năm thứ ba, tôi đã có được 15 triệu trong trương mục của mình, Mike không hay biết gì về việc tôi làm, cứ tưởng tôi đang nổ lực bỏ tiền vào để hoàn tất khu giải trí.
Vào giữa năm thứ tư,khu du lịch và giải trí của tôi hoàn tất. Chúng tôi mời Tỉnh ủy, các trưởng phòng, giám đốc các cơ quan, hội phụ nữ, hội các bà mẹ và tất cả các cổ phần đến cắt băng khánh thành. Âm nhạc rộn rã reo vui trong những gian hàng trò chơi, tiếng nói cười dòn tan trong những gian hàng bán đồ chơi, đồ lưu niệm. Những em bé mắt tròn xoe, ôm cổ Mickey Mouse chụp hình cười hở cả hàng răng sún. Dân Qui Nhơn chưa bao giờ vui như vậy, người người lũ lượt kéo từ các huyện xuống tấp nập, đường xá dọc theo ven biển đi không có  chỗ chen chân. Một hàng xe du lịch phải đậu từ xa để cho du khách đi bộ tới. Tiếng súng bắn banh, tiếng la hét từ phi thuyền không gian, xe lửa cao tốc, tiếng trống,tiếng kèn của ban nhạc đang đi diễn hành tạo thành một hoạt cảnh huyên náo, dồn dập, sống động vô cùng.
 Ngoài biển những chiếc ca nô kéo những cánh dù xanh đỏ, những người dơi bay lơ lững trên bầu trời trong xanh như những cánh chim hải âu. Về đêm đảo Cù Lao Xanh bập bùng tiếng trống, tiếng khèn của nhân  viên  khu giải trí hóa trang thành người dân tộc. Nhảy lửa, ăn thit nướng, ca hát vang dậy góc rừng. Du khách sống một đêm ở đây sẽ không bao giờ quên được cảnh man khai , rừng rú nầy.
 Thành phố như được hồi sinh sau những năm tháng ảm đạm. Happy Entertainment  công ty đã thổi vào người dân tỉnh lỵ một nguồn sinh lực tràn trề hy vọng. Hơn 500 việc làm được mở ra cho các thanh thiếu niên. Các tiệm ăn, tiệm giải khác mọc lên như nấm, du khách tới lui, ăn uống tấp nập ,ồn ào. Hàng đoàn xe chở khách du lịch của Sàigon Tourist đổ khách du lịch ngoại quốc và trong nước  xuống ào ạt, giúp cho nhà nước thu được một số ngoai tệ rất lớn. Ai ai cũng có công ăn việc làm theo hệ thống dây chuyền. Vì thế không ai rủ ai, họ tự động xếp hàng trước văn phòng của công ty để mua cổ phiếu, những người mua bây giờ không phải nhà giàu nữa mà thuộc thành phần trung lưu, có một hay hai lượng vàng trong nhà cũng bán đi để mua cổ phiếu.
Mike thấy tôi tiếp tục bán cổ phiếu, lấy làm ngạc nhiên vì công trình đã hoàn tất. Tôi cắt nghĩa với Mike là tôi muốn rút vốn để đầu tư vào chuyên làm ăn khác. Lúc bấy giờ tôi có được 30 triệu trong công. Đầu tháng thứ hai tôi công bố là lời được 10 %, cứ mỗi cổ phần  lời được 100 đô một tháng. Tôi lấy tiền người mới mua trả lời cho những người cũ làm cho số người mua cổ phiếu tăng vot. Ngoài tiền trả tiền lương cho nhân viên, tiền điện, nước, gas, tiền lời cho các cổ phần, còn lại bao nhiêu tôi chuyển qua nhà bank Thụy Sĩ. Tôi áp dụng cách tính lợi nhuận theo hình Kim Tự Tháp mà người đứng đầu là tôi, lấy tầng dưới trả cho từng trên, từ dưới đi lên theo thứ tự lấy nhiều trả ít. Mike lo việc điền tên vào giấy chứng khoán, tôi lo thu tiền và cho mã số thứ tự của stock , khi mã số đến 2 triệu, tôi trở lại số 11 vì 10 số đầu là của ông giám đốc Sở Kế Hoạch và Đầu Tư  không thể trùng lập với ai được.
Khi Kim Tự Tháp đã quá tải, tôi đã mánh được 30 triệu, cọng với 10 triệu vốn, tổng cọng tôi có tất cả là 40 triệu sau 10 năm mánh mung. Tôi phải  tìm đường "tẩu" , không thôi sẽ ăn phải keo đồng. Tôi đặt hai vé máy bay, một cái đi Nam Phi, một cái đi Mỹ, đi bằng hai ngả  khác nhau. Mỗi cuối tuần tôi với Mike thường đi chơi riêng rẻ, tôi thì đi đánh tennis hoặc về Bảo Lộc thăm vợ, Mike thì về đồng quê du ngoạn hay ra Huế, Hội An viếng cảnh. Cuối tuần nầy, chúng tôi có vắng mặt chắc chẳng có ai nghi ngờ gì.
Trước buổi sáng thứ sáu họp hội đồng quản trị cổ phần. Tôi thú thật với Mike là company không có lời, tôi lấy tiền của người mới mua trả tiền lời cho người cũ để lấy vốn lại. Tôi bày mưu tính kế cùng với Mike rút lui cho lẹ. Trong phiên họp khoáng đại, cứ 6 tháng một lần, Mike ngỏ ý là muốn về Mỹ để nghỉ xả hơi vì làm việc quá mệt mỏi, sẽ giao quyền kinh doanh lại cho những người nào có nhiều  cổ phần nhất. Sau một cuộc bầu bán chúng tôi có một danh sách cổ phần viên đảm nhiệm trông coi và quản lý khu du lịch. Tôi dành riêng một buổi sáng để trả lương nhân viên và trả tiền lời cho cổ phần. Xong buổi họp, tôi đưa cho Mike tấm vé máy bay và tờ giấy chứng nhận đã chuyển thẳng từ ngân hàng Thụy Sĩ sang công của Mike ở Mỹ là 100 ngàn đô.
Chúng tôi về khách sạn ăn cơm trưa như thường lệ. Ăn xong tôi lái xe đi đánh Tennis, Mike vào phòng tắm hơi một lát bước ra, biến thành một ông Tây ba lô, mặc áo thun, quần sọt, đeo kính mát đen, không ai nhận ra ông chủ bự. Ông Tây ba lô đón xe thồ đi ngã ba Phú Tài để đón chuyến xe đò sớm nhất từ Đà Nẵng về Sàigòn, ngày mai đi Mỹ lúc 8 giờ sáng. Còn tôi lái thẳng ra Huế lấy máy bay đi Nội Bài. Bước xuống phi trường tôi chuyển thẳng sang phái đoàn đi du lịch Phi Châu. Trên máy bay, tôi thở phào nhẹ nhõm, không một ai quen hay nhận ra tôi. Trước khi ra đi, tôi đã để lại cho Hương một số tiền đủ để nàng sống trọn đời mà khỏi phải đi làm.
Sang đây tôi gặp Niki, người hướng dẫn viên du lịch, không những xinh đẹp mà còn duyên dáng, mặn mà. Tôi kết hôn với nàng và ở lại đây hơn một năm nay. Tôi thuộc loai tứ chiếng giang hồ, nhưng hai cô vợ bên tôi thật thuần hậu, chất phác, không bao giờ hỏi hoặc đá động gì đến những việc tôi đã làm.

*

Chiếc du thuyền cập bến  ở mũi Midland, một xe cảnh sát đứng chờ sẵn ở cầu tàu, họ bước lên du thuyền còng tay ông Lương, tống lên xe trước đôi mắt mở to, hốt hoảng của Niki. Xe cảnh sát chạy, Niki chạy theo khóc lóc, năn nỉ  bảo là có lẽ họ bắt lầm. Họ quay lại nói với nàng là được lệnh Interpol -tổ chức cảnh sát quốc tế- dẫn độ đương sự về  Mỹ về tội lường gạt.
SƯƠNG  NGUYỄN

Ý kiến bạn đọc
01/01/201816:48:32
Khách
Cam on Co . Con xin cau chuc Co va Gia Quyen mot nam moi An Khang , Thinh Vuong.
07/09/201714:19:24
Khách
Chuyện tao lao bia đặc...
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 833,892,221
Tác giả đã nhận Giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2019. Là con của một sĩ quan tù cải tạo, ông đã góp 3 bài viết xúc động, kể lại việc một mình ra miền Bắc, đạp xe đi tìm cha tại trại tù Vĩnh Phú, vùng biên giới Việt-Hoa
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ năm 2019 và đã nhận giải Việt Bút Trùng Quang, dành cho bài viết góp phần phát triển văn hóa Việt tại hải ngoại.
Tác giả tên thật Trần Năng Khiếu. Trước 1975 là Công Chức Bộ Ngoại Giao VNCH. Đến Mỹ năm 1994 theo diện HO. Đã đi làm cho đến năm 2012.
Tác giả lần đầu tham dự Viết Về Nước Mỹ và đã nhận giải VVNM 2019. Bà tên thật là Ngô Phương Liên, học Trưng Vương thời trung học, vượt biển qua Mỹ năm 79
Tác giả lần đầu tham dự Viết Về Nước Mỹ và đã nhận giải VVNM 2019. Bà tên thật là Ngô Phương Liên, học Trưng Vương thời trung học, vượt biển qua Mỹ năm 79
Tác giả lần đầu tiết về nước Mỹ từ tháng 11, 2018, với bài “Tình người hoa nở”, tháng 12, “Mùa kỷ niệm” và “Chị em trung học Nữ Thành Nội.”
Tác giả là một Phật tử, pháp danh Tâm Tinh Cần, nhũ danh Quách Thị Lệ Hoa, đã nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ 2011, với loạt bài tự sự của một phụ nữ Việt thời chiến, kết hôn với một chàng hải quân Hoa Kỳ
Tác giả tên thật là Đặng Thống Nhất, một nhà giáo hồi hưu. Sau nhiều năm dạy Song Ngữ và ESL tại Khu Học Chính Minneapolis và Việt Ngữ tại Đại Học Minnesota.
Tác giả tên thật là Đặng Thống Nhất, một nhà giáo hồi hưu. Sau nhiều năm dạy Song Ngữ và ESL tại Khu Học Chính Minneapolis và Việt Ngữ tại Đại Học Minnesota.
Tác giả là nhà báo quen biết trong nhóm chủ biên một số tuần báo, tạp chí tại Dallas.