Hôm nay,  

Tâm Sự Tháng Tư: Tìm Đâu Nguồn Cội

04/04/200900:00:00(Xem: 141997)

Tâm Sự Tháng Tư: Tìm Đâu Nguồn Cội

Tác giả: Trần Hồng Linh
Bài số 2579-16208656- vb740409

Tác giả là một thuyền nhân định cư tại Bắc Mỹ, kể lại chuyến về thăm Saigon lần đầu.  Bài viết  của bà  được ghi là "để kỷ niệm ngày đau buồn Tháng Tư 1975," và thể hiện  niềm khắc khoải của tác giả về thế hệ sinh sau 1975, đang sống trong nước và ngoài nước."  Mong Trần Hồng Linh sẽ tiếp tục viết thêm.

***
Khối nắng đổ xuống  giữa trưa như muốn làm mềm lớp nhựa đen trên đường. Dòng xe cộ chen chúc cùng với những tiếng còi xe gắn máy thi nhau inh ỏi ré lên, đòi hỏi sự lưu hành ưu tiên. Tôi nắm chặt lấy tay đứa cháu gái, con ông anh, ngập ngừng băng qua con đường ở thành phố Sài Gòn. Bề ngang của lòng đường  chỉ khoảng rộng bằng ba lane xe chạy thôi, mà sao tôi nhút nhát, bối rối, không biết nên bước tới hay dừng lại vì lượng xe gắn máy vù vù qua mặt quá đông.  
"Cứ như cô thì làm sao băng qua đường được," đứa cháu gái rộn ràng tiếng cười, " để cháu dắt cô đi "
Trâm nhanh nhẹn kéo tay tôi lôi đi. Một tay tôi ôm túi đồ, tay kia tôi nắm chăt lấy  Trâm như thể sợ vụt mất vị cứu tinh của mình. Tiếng còi xe gắn máy cứ làm tôi giật mình liên tục, tim muốn rơi ra ngoài vì sự chen lấn của dòng xe, cái xe nào cũng như chực đâm sầm vào tôi. Nếu không có Trâm, tôi không biết sẽ xử trí ra sao trong những ngày đầu bước chân ra đường phố. Tôi lúng túng trong mọi việc mua sắm và ngay cả việc băng ngang qua một con đường, tôi cũng không dám quyết định. Tôi không ngờ rằng chỉ hơn hai mươi năm xa cách quê hương, tôi bỗng trở nên người khách lạ trên vùng đất nhà, mọi thứ sinh hoạt của thành phố trở nên lạ lẫm đối với tôi. May mà có Trâm  hướng dẫn tôi trong mọi việc ở nơi này. Dù sao với Trâm, là người trong gia đình, chúng tôi dễ thân thuộc với nhau, không như buổi tiếp xúc ban đầu với hàng xóm, tôi còn nhớ như in.
Buổi sáng đầu tiên trên quê hương, đứng trước sân nhà, tôi còn bỡ ngỡ với không khí và cảnh vật thay đổi ở nơi này. Nhác thấy người hàng xóm bước ra cửa, tôi cất tiếng chào hỏi. Ông hàng xóm cũng nhận ra tôi và cất tiếng chào lại. Câu chuyện đang hào hứng sôi nổi với những hỏi thăm nhau về cuộc sống, bỗng từ xa một cô bé chừng mười bốn, mười lăm tuổi rụt rè tiến đến. Ông hàng xóm vừa vẫy tay gọi cô gái nhỏ, vừa giới thiệu, "Con tôi đấy cô à, hồi cô ra đi tôi chưa có đứa này."  đoạn ông ta  quay sang bảo đứa con chào tôi. Cô gái tròn mắt, ra dáng ngạc nhiên vì lời nói của ông bố, ý chừng không biết tôi là ai, ánh mắt thơ ngây và đầy tò mò, dò hỏi. Ông ta vội nói "Chào cô đi con, cô Hằng là con ông bà Mùi." Muốn thêm rõ ràng hơn nữa về phần lý lịch của tôi, ông ta quay sang nói tiếp với đứa con "Cô Hằng là chị của cô Phương và chú Thắng đó." À, nói đến mấy đứa em tôi, nói về những người trẻ tuổi thì cô bé có vẻ hiểu  nhiều hơn. Cô con gái ông ta mới gật đầu chào như sự mặc nhận mối quan hệ xóm giềng với tôi. Tự dưng trong tôi, một cảm giác ngỡ ngàng ập đến bởi lẽ lời giới thiệu như một bản kê khai lý lịch với cán bộ hộ khẩu năm nào trong việc sưu tra sổ mua lương thực. Tông tích, lý lịch, tiểu sử phải xưng ra. Nào có khác chi chàng Từ Thức trở về quê cũ. Ngày Từ Thức từ tiên cảnh về thăm làng xưa, bùi ngùi vì những người đồng trang lứa không còn nữa. Chẳng mấy ai biết tông môn của Từ Thức để rồi anh chàng não lòng từ biệt quê xưa. Nghĩ ra tôi còn may mắn hơn Từ Thức vì còn có ông hàng xóm biết đến tôi,  biết đâu nếu chừng thêm dăm năm nữa, những bạn bè trang lứa không còn nữa, thì mình sẽ ra sao" Chao ôi, có bao nhiêu Từ Thức tân thời trong thế hệ của tôi.
Nghĩ lại buổi tối hôm trứơc, bà chị dâu tôi, mẹ của Trâm thuật lại câu hỏi của đứa cháu tôi "Làm sao để làm quen với cô Hằng"" tôi đã bật cười vì sự thơ ngây của trẻ nhỏ, giờ đây có thêm những đứa bé hàng xóm nhìn tôi bằng ánh mắt dọ hỏi, chừng như muốn biết về thân thế của tôi. Bỗng dưng tôi chơi vơi, hụt hẫng. Những kỳ vọng của chuyến trở về thăm quê tựa như trái bong bóng vuột khỏi tay và bay dần dần lên không trung. Tôi ngỡ ngàng nhận ra sự đổi thay của vùng đất này. Khi xưa tôi thông thuộc từng con ngõ từng khu xóm ngoằn ngòeo, mỗi góc đường mỗi khu phố đầy ắp kỷ niệm thuở thiếu thời. Giờ đây tôi bỡ ngỡ với sự thay đổi của nó cùng với lớp người mới lớn lên. Những biến đổi của cảnh vật và con người sao mau chóng quá đi.
Tôi tần ngần ngước mắt nhìn phía trước khu chợ Tân Định, những cột trụ xi-măng thẳng đứng xếp theo dáng bậc thang ở hai bên cánh nhô cao đến chóp đỉnh. Khoảng giữa mặt trước của chợ là cái đồng hồ to tròn, hai cái kim đồng hồ đứng i sì một chỗ, không nhúc nhích, ngược với sự nhộn nhịp của kẻ chợ mua bán ra vào. Cái chợ không nhiều thay đổi. Có chăng là những bảng hiệu quảng cáo của các sản phẩm nước ngoài đang to choáng nhiều hơn trước. Lượng hàng đầy dẫy, chẳng bù cho sự eo xèo hàng hoá trong thời kỳ Quốc Doanh thương nghiệp lúc chưa có nền kinh tế thị trường. Người ta cho rằng phần lớn đồng đô la Mỹ đến từ người Việt hải ngoại là nguyên nhân thay đổi quan điểm chính trị của nhà cầm quyền nơi đây. 
Nghĩ lại lúc vượt biên khỏi Việt nam, chẳng ai có thể tưởng tượng được ngày về thăm quê hương xứ sở. Vậy mà quay trở về thật, về với uy lực của tờ Mỹ kim in hình Tổng thống Washington trong túi áo. Ngày xưa ra đi trốn chạy với bóng tối hiểm nguy, bị coi là kẻ phản quốc. Bây giờ, ở xa thì được gọi là "khúc ruột ngoài ngàn dặm" trở về thì được coi là một thứ việt kiều yêu nước, bởi những tờ Đô Mỹ xanh xanh đầy quyền lực. Thế mới biết đồng tiền đáng sợ thật.  Nó khiến cho tập đòan Cộng sản trở nên ngọt nhạt, nhũn nhặn, lịch sự với Việt kiều, là những kẻ đã từng bị lên án là phản quốc.   
Đứng bên này đường Hai Bà Trưng, tôi ngắm nhìn phía bên kia là chợ Tân Định.  Tôi chợt giật mình nhận ra, cũng ở vị trí này của  hơn ba mươi năm về trước, vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 tôi cùng với đám bạn trong xóm, đầy hiếu kỳ, đứng bên lề đường xem đoàn quân miền Bắc tiến vào trung tâm thành phố. Chúng tôi khẽ nói với nhau "Ê, trên nóc cái ba-lô có gài cái chén và đôi đũa, kỳ lạ há." Đòan quân lính  gầy gò, nhỏ thó, võ trang súng đạn trên lưng trên vai bước giữa phố phường, có vài người cõng trên lưng cái bao khá nặng, kích thước nhỏ cỡ như cái gối ôm tròn của trẻ nít (sau này tôi mới biết đó là bao gạo của họ). Những người đứng xem trên đường ngơ ngác nhìn nhau hỏi "Thế này mà họ thắng trận được ư""
Vài ngày sau, cảnh phố phường rợp màu cờ nửa xanh nửa đỏ với ngôi sao vàng ở giữa, lá cờ tượng trưng cho sự hoà hợp hoà giải dân tộc được treo ở mỗi gia cư như một thứ bùa hộ mệnh, mong cầu thoát khỏi sự bắt bớ giam cầm.
Giờ đây, khi nghĩ về lá cờ giải phóng với nửa xanh nửa đỏ ấy, tôi buồn cười cho những ý tưởng thơ ngây về sự xây dựng nền hoà bình của nước tôi bằng những hoà giải. Xương máu đã đổ ra, oán hờn ngun ngút, tang tóc điêu tàn, dễ gì thoả thuận bắt tay với đối thủ đây chứ. Làm gì có tổ chức chính trị nào sống nổi với chế độ đảng Cộng sản, bởi thế màu cờ giải phóng phải mau chóng dẹp bỏ và thay vào đó màu đỏ hoàn toàn. Đó là màu tượng trưng cho chiến thắng hay màu u buồn phủ lên dân tộc tôi"  Màu cờ báo hiệu cho sự đọa đày, ức hiếp, đói khổ và hàng bao con người chôn trong lòng đại dương. Ách đau thương phủ lên dân tộc tôi từ khi màu cờ đỏ ngự trị trên thành phố Sài Gòn. Bao giờ màu đỏ của lá cờ được thay thế, lúc ấy máu xương con người sẽ không tuôn đổ, dân tôi mới có hoà bình thật sự, có phải thế không" Tôi lắc đầu xua đi những ý nghĩ của mình. Đàn bà chân yếu tay mềm như tôi, nghĩ chi xa xôi quá đi, mình lẩn thẩn lắm rồi đấy.
Trong dòng người tấp nập của khu phố chợ. Trâm dắt tay tôi đi xuôi về phiá cầu Kiệu. Lúc đi ngang tiệm sách, tôi ngập ngừng dừng lại.
"Có việc gì vậy cô"" Trâm hỏi .
"Đi ngang tiệm sách cô nhớ đến thời kỳ sau "giải phóng"  người ta mang sách đi đốt."
"Vậy sao cô" Cháu tưởng  trong lịch sử chỉ có Tần Thủy Hoàng đốt sách, chứ người Việt mình cũng đốt sách sao"" Trâm cao giọng hỏi.
"Có. Sau khi giải phóng Sài Gòn, những người chiến thắng đã hô hào việc đốt sách, cháu ạ."
Tôi ngậm ngùi nhớ đến những ngày tháng của tháng Năm năm 1975, từng đoàn thanh niên mang băng đỏ trên cánh tay, họ đi lùng khắp phố phường thu gom những sách báo của chế độ cũ trong chiến dịch truy quét tàn dư văn hoá. Lúc bấy giờ, những tiệm sách phải tuôn đổ những sách báo ra lề đường để tháo chạy tội tàng trữ văn hoá đồi trụy. Những ấn phẩm tràn ngập đường phố với giá rẻ như bèo mà  chẳng ai dám mua tàng trữ vì không muốn liên lụy, không muốn bị bắt bớ. Tôi chứng kiến những chồng sách chất đầy trên xe ba bánh được dun đến sân nhà thờ Tân Định, nơi có khoảng sân  rộng rãi thích hợp cho cuộc tụ hội này. Từng đống sách được tuôn đổ xuống mảnh sân gạch, chất cao như ụn rơm. Sắc mặt ai nấy trở nên nghiêm trọng, một đám người cầm súng AK giơ lên, hò hét, chỉ huy cuộc đốt sách như thể họ đang tổ chức cuộc hành hình xử bắn tội nhân.
Lại nói, khi tất cả những văn hoá phẩm của miền Nam đều bị cấm phổ biến, nhạc vàng  loại nhạc tiền chiến cũng bị cấm đoán. Lúc bấy giờ chỉ có bài Nối Vòng Tay Lớn của Trịnh Công Sơn được phép hát trong các buổi sinh hoạt hội đòan của sinh viên học sinh. Còn lại  những nhạc phẩm ca ngợi Đảng Cộng Sản và bác Hồ(như .. .  đêm qua em mơ gặp bác Hồ) hoặc cả những bài hát phát xuất từ Trung Hoa như Đông Phương Hồng ca ngợi tình hữu nghị giữa Trung Hoa và Việt Nam, được mở đầu cho các buổi sinh hoạt chính trị của giới thanh niên. Bởi vậy khi ngọn lửa phát lên từ những cuốn sách bị đốt trong cuộc tiêu hủy Văn Hoá của miền Nam, một đám thiếu niên bị khích động, chạy vòng quanh gò lửa, hò hét, ca hát reo vang. Những họng súng  chia chỉa cùng với đôi mắt trợn trừng  của người trưởng toán băng đỏ  hối thúc giục giả đám thiếu niên hát to hơn, thét lớn hơn để mừng vui cho thắng lợi vẻ vang thống nhất đất nước. Bên cạnh đó, những lưỡi lửa đang liếm từng trang sách.  Nào khác chi quang cảnh của một buổi tế thần.


Vài tháng sau, trong buổi học tập chính trị ở giảng đường, đám sinh viên chúng tôi luôn luôn nghe những lời mạt sát về nguồn văn phẩm của chế độ cũ. Hẳn nhiên họ, kẻ chiến thắng không buông tha cho các nhà văn, về sau này khi ra nước ngoài tôi được biết thêm nhiều nhà văn bị lùng bắt và cầm tù.
"Sao lúc ấy người ta đốt sách hở cô"" Trâm hỏi.
Câu hỏi của Trâm đẩy tôi vào nhiều suy nghĩ thêm nữa. Làm sao với một lời ngắn ngủi để giải thích cho thế hệ sau biết về hành động man rợ đốt sách của những người chiến thắng. Thế hệ sinh sau 1975 biết được những gì về cuộc chiến tương tàn trong khoảng thời gian hai miền Nam Bắc chia cắt cho đến lúc thống nhất đất nước" Chắc rồi tất cả sẽ chìm vào quên lãng khi những người ở lứa tuổi chúng tôi không còn nữa.
Có lần trong buổi ăn tối của gia đình, tôi nói chuyện với các con của tôi về một cuốn hồi ký của một quân nhân trong trận chiến ở Huế và cuộc triệt thoái quân đội của mìền Nam. Các con tôi, chúng được sinh ra và lớn lên trong không khí tự do, tất nhiên chúng nó khó mường tượng được cuộc chiến Việt Nam như thế nào. Tuy nhiên, ở khía cạnh nào đó, chúng nó hiểu một cách nôm na rằng, người thắng thì chiếm đóng vùng đất mà họ mới giải phóng, còn người thua thì phải ra đi nếu không muốn bị chết hoặc tù đày. Tị nạn chính trị,  loại từ ngữ văn hoa dành cho những người thua cuộc, có phải thế không" Cuốn hồi ký nói lên phần nào những mất mát niềm tin nơi giới lãnh đạo gây nên sự tan rã của đội ngũ và sự hỗn loạn lúc đó. "Những ghi nhận của người chiến bại rất hiếm hoi" đứa con nói. 
Tôi ầm ừ với câu nói của con trẻ. Phải chăng người thua trận có mấy ai sống sót để viết lên trang sử sách" Vậy mà có biết bao nhiêu tác phẩm viết từ hải ngoại ghi nhận những chuyển biến quê hương trong thời kỳ hậu chiến. Chúng như những mảnh lịch sử còn đang rời rạc tản mác và đợi đến lúc thuận tiện sẽ được ráp nối bởi bàn tay của một sử gia đầy công tâm, giúp cho thế hệ mai sau được vững vàng tiếp nối truyền thống của dân tộc.
Đứa con hỏi tiếp "Phe thắng có viết về ngày 30 tháng Tư không"" Ơ, sao lại không"  Họ xem đó là niềm tự hào và viết rất nhiều về nó, tuy rằng họ đã cố tình sai lệch trong cái nhìn của họ. "Như vậy cùng một sự kiện lịch sử, có hai loại sách khác nhau đang được viết cùng lúc sao""
Đành rằng lịch sử được viết bởi những người chiến thắng, ai cũng biết điều đó. Nếu những người chiến thắng trong cuộc chiến Việt Nam ghi lại những thành tựu của họ nhằm mục đích xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn cho dân chúng thì họ xứng đáng là người thắng trận. Mỉa mai thay, những cuốn sách rao truyền về cuộc chiến thắng chống Pháp chống Mỹ lại che dấu sự thật. Bởi thế, sau hai mươi năm học lịch sử chiến thắng Mỹ, lớp người trẻ lớn lên thiếu thốn kiến thức nhân văn, họ như  cây non lỏng gốc, chao đao trong giòng phát triển của thế giới. Lớp trẻ tìm cách ra nước ngoài bằng nhiều con đường khác nhau. Người thì trong chương trình xuất khẩu lao động, kẻ thì ở dạng kết hôn với ngoại kiều, tất cả những người đó rời nước với chung một lí do: Kinh tế. Đó là lối nói lịch sự của thế giới với ngụ ý về sự nghèo đói túng quẩn của một quốc gia chậm phát triển, dẫu rằng miền đất chữ S dày đặc tài nguyên.
Câu hỏi của con tôi đã làm tôi lúng túng, giờ đây thêm câu hỏi của Trâm về sự việc những người Cộng sản Việt Nam đốt sách năm xưa.
"Lý do rất đơn giản, người ta sợ những truyền đạt của sách sẽ ảnh hưởng tới chế độ mới cháu ạ." 
Thấy Trâm có vẻ ngơ ngác chưa hiểu, tôi nói tiếp "Chuyện đó đã hơn 30 năm rồi cháu ạ. Truy nguyên ra thì chẳng ai dám nhận rằng mình đã làm điều bất đạo ấy, người ta đổ lỗi cho nhau, trong lúc ban đầu hỗn quân hỗn quan thường có những người lợi dụng thời cơ để gây điều càng bậy. Xét ra thì chẳng có điều luật hay ủy ban nào thành lập để ra lệnh đốt sách hay tù đày văn sĩ. Tất cả đều chỉ thị bằng lời nói nên không có chứng cớ nào buộc tội họ cả vì những nạn nhân đã chết hoặc lưu lạc xứ người."
"Có phải họ rút kinh nghiệm vụ cải cách ruộng đất của miền Bắc khi xưa, nên lần này họ không thành lập ủy ban thực hiện pháp lệnh này không cô"""
"Có lẽ như vậy, đó là cách trốn tránh sự phán xét của lịch sử, cháu à."
Không muốn dài giòng về những chuyện xưa, tôi giục giã Trâm đi vào tiệm sách.
Chúng tôi vào tiệm sách. Luồng hơi thổi từ máy lạnh tỏa ra khá mát mẻ. Những cô nhân viên bán hàng mặc áo dài xanh trông rất lịch sự. Họ trang phục như các cô bán hàng của tiệm sách Khai Trí ngày xưa, tuy vẻ mặt  thiếu sự tươi cười mời mọc của người bán hàng. Trong tiệm, các sách được bày trên kệ ngay ngắn. Lượng khách hàng cũng khá đông đảo.
"Đông khách nhỉ"" tôi ngạc nhiên nói.
Trâm đáp khẽ "Không phải ai vào đây cũng mua sách đâu, "chừng như để giải tỏa sự  thắc mắc của tôi, cô cháu gái giải thích thêm, "sách đắt quá trời luôn, mua sao nỗi cô. Đa phần người ta vào đây để trốn nóng và xem sách lóm."  
Tôi cầm vài quyển sách lên và xem phần giá biểu. Nếu so với mức thu nhập trung bình của người dân nơi đây, giá biểu này quả là thử thách cho giới đọc sách. Duy những sách thuộc loại cởi mở có giá cao thôi, loại sách tuyên truyền vẫn được sự tài trợ của nhà nước, giá rẻ ối.
"Bộ nhân viên tiệm sách không có cách ngăn chận bớt những người đọc lóm sao""
"Thỉnh thoảng thấy ai đứng lâu quá thì họ yêu cầu người ấy ra ngoài."
Tôi nhận ra đa phần sách trong tiệm loại sách tự điển và khá nhiều sách dịch từ nước ngoài. Sách về văn học có nhiều tác giả mới xuất hiện. Dạo bước qua những ngăn kệ, bắt gặp một tựa sách, tôi đột ngột dừng chân, vói tay cầm lấy cuốn sách trên kệ và quay sang hỏi Trâm.
"Hồi đi học, Trâm có phải học các tác phẩm chống Mỹ cứu quốc không"" vừa hỏi, tôi vừa giơ ra quyển sách mang tựa "Nhật Ký Trong Tù" cho Trâm thấy.
"Trời! Đó là sách căn bản cho chương trình học Văn của cấp 2 và cấp 3 đó cô. Không học thuộc thì đừng hòng vượt qua kỳ thi tốt nghiệp. Chưa kể có thêm sách chống Mỹ cứu quốc nữa . . . . "
"Bây giờ còn học chống Mỹ cứu quốc sao"". Tôi tròn mắt hết cỡ, ngắt lời Trâm.
Hiểu ý tôi muốn nói đến những cuộc cầu cạnh Mỹ của chính quyền VN. Trâm cười, "Chứ không học sách chống Mỹ cứu quốc thì lấy sách nào ra học đây cô. Có mấy cuốn sách chống Mỹ xào tới xào lui, mấy bài thơ của Tố Hữu, Chế Lan Viên cũng y chang, ca ngợi Đảng nghe phát sợ luôn. Thời buổi kinh tế thị trường, ai hơi đâu ngồi soạn sách cho học trò hở cô" "
Nghe có lý phần nào chứ. Sách vở của chế độ cũ đã xóa sạch, sách mới chưa sọan, hồi thời kỳ chiến tranh họ lo đánh giặc, đến lúc hoà bình thì lo xây nhà mua xe.  Dẫu nhà nước có cởi mở cho ngành văn hóa nghệ thuật, nào có ai dám bước ra khỏi những huấn dụ phủ từ của Đảng, viết lời chỉ trích đối lập" 
Giọng Trâm có phần phấn khởi, nói tiếp: "Bởi vậy có cuốn Nhật ký trong tù của bác Hồ, bắt tụi con học đi học lại phát chán luôn. Thơ phú cái gì mà viết: ghẻ lở mọc đầy thân.  . . . .nghe thấy ghê ghê. Cô biết không" Riết rồi người ta sửa thơ của Bác luôn.  Cô đã nghe bài Đêm nay bác không ngủ chưa" người ta sửa thành: Đêm nay bác không ngủ, ngày mai bác ngủ bù, anh đội viên gật gù, sao bác khôn thế nhỉ"" Trâm cười hóm hỉnh,"Còn nhiều cái sửa lắm cô ơi."
Tôi bật cười với câu thơ chế giễu, châm chọc, phản đối chế độ ngấm ngầm, nó là nguồn văn học dân gian truyền miệng theo đúng như các cụ thường dạy "Trăm năm bia đá thì mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ". Phải chăng lịch sử đang được truyền khẩu trong nước" Nó đang được truyền tụng trong nhân gian bằng lời nói khi mà người dân bị áp bức, không có quyền bình đẳng tự do.
Đặt lại quyển sách lên kệ, tôi không khỏi suy tư cho lớp người trẻ ở quê hương. Với những sách giáo điều cũ kỹ, những tác phẩm vinh danh sai lệch đã khiến cho giới trẻ mất niềm tin vào học đường và nhà nước. Vậy thì trách chi xã hội có các cô gái làm dâu nơi xứ người và các chàng trai bán sức lao động trong chương trình hợp tác kinh tế!!
Ngẫm lại, ở trong nước và ngoài nước, lớp người trẻ đang học lịch sử bằng lối  truyền rao, một con đường vòng cho việc học hỏi kinh nghiệm của lớp người đi trước, khá mất nhiều thời gian. Dù gì đi nữa, tôi tin rằng lớp người trẻ sẽ có cuộc sống không vất vả gian nan như thế hệ cha anh, lớp người đã hy sinh tuổi thanh xuân trong cuộc chiến tranh. 
*
Ngồi trên phi cơ trở về Bắc Mỹ, tôi tự hỏi bao giờ sẽ trở về thăm lại quê hương lần nữa. Lúc ấy tôi sẽ ra sao nhỉ" Có phải tôi sẽ như câu thơ: 
Bé đi, già mới về nhà
Giọng quê không đổi, tóc đà rụng thưa
Trẻ con trông thấy hững hờ
Cười ồ, hỏi khách lại từ phương nao"
(Trần Trọng Kim dịch thuật)
Thân tôi lưu lạc nơi xứ người vọng tưởng về cố quốc đã đành. Thương thay cho lớp thế hệ mới trong nước, lớp người sinh sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 phải chịu đựng hậu quả của những bài học lịch sử chống Pháp chống Mỹ dẫu biết rằng những điều đó là sai trật và giả dối. 
Biết đâu chừng lớp người trẻ sẽ viết tiếp trang sử mới khi "tức nước vỡ bờ". Tôi lẩm bẩm với chính mình.
Nhìn qua ô cửa sổ nhỏ của máy bay, từng cụm mây trắng xoá ùn ùn dâng lên, thành phố Sài Gòn nhỏ dần, mờ mịt, xa tít, cho đến khi mất hẳn trong tầm nhìn. Mây, như dải lụa trắng quấn lấy thân con tàu, bềnh bồng bềnh bồng...
Trần Hồng Linh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 833,303,239
Con đường dài nhất của người lính không phải là con đường ra mặt trận, mà chính là con đường trở về nhà. Đúng vậy, con đường trở về mang nhiều cay đắng, xót xa của vết thương lòng, của những cái nhìn không thiện cảm của người chung quanh mình, và nhất là những cơn ác mộng mỗi đêm, cho dù người lính đã giã từ vũ khí mong sống lại đời sống của những ngày yên bình trước đây.
Khanh con gái bà chị họ của tôi, sinh năm Nhâm Tý xuân này tròn 48 tuổi, ông bà mình bảo, Nam Nhâm, Nữ Quý bảnh nhất thiên hạ. Mẹ nó tuổi Quý Tỵ, khổ như trâu, một đời vất vả gánh vác chồng con, con bé tuổi Nhâm mạnh mẽ như con trai nhờ ông ngoại hun đúc từ tấm bé.
Nhìn hai cây sồi cổ thụ ngoài ngõ cũng đủ biết căn nhà đã trả hết nợ từ lâu. Hai cái xe Cadillac của người già không lên tiếng nhưng nói biết bao điều về nước Mỹ. Khi còn trẻ thì người ta không có tiền để mua những cái xe đắt tiền như Cadillac, Lincoln. Những cô cậu thanh niên mắt sáng, chân vững tay nhanh, chỉ đứng nhìn theo những chiếc xe bóng loáng, mạnh mẽ…
Tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Bà định cư tại Mỹ từ 26 tháng Ba 1992, hiện là cư dân Cherry Hill, New Jersey. Sau đây, thêm một bài viết mới của tác giả
Tác giả đã nhận Giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2019. Là con của một sĩ quan tù cải tạo, ông đã góp 3 bài viết xúc động, kể lại việc một mình ra miền Bắc, đạp xe đi tìm cha tại trại tù Vĩnh Phú, vùng biên giới Việt-Hoa Sau đây là bài viết mới nhất của Ông nhân ngày lễ Tạ ơn
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 9, 2018. Ông tên thật Trần Vĩnh, 66 tuổi, thấy giáo hưu trí, định cư tại Mỹ từ năm 2015, hiện là cư dân Springfield, MA. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Tác giả tên thật Nguyễn Hoàng Việt sinh tại Sài Gòn. Định cư tại Mỹ năm 1990 qua chương trình ODP (bảo lãnh). Tốt nghiệp Kỹ Sư Cơ Khí tại tiểu bang Virginia năm 1995. Hiện cư ngụ tại miền Đông Nam tiểu bang Virginia. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ cuối năm 2016.
Tác giả đã kề cận tuổi 90 và lần đầu nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2019, với bài về Washington D,C. Mùa Lễ Chiến Sĩ Trận Vong và Bức Tường Đá Đen khắc tên các tử sĩ trong cuộc chiến Việt Nam.
Tác giả đã kề cận tuổi 90 và lần đầu nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2019, với bài về Washington D,C. Mùa Lễ Chiến Sĩ Trận Vong và Bức Tường Đá Đen khắc tên các tử sĩ trong cuộc chiến Việt Nam.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7/2018, với bài “Thời Gian Ơn, Ngừng Lại”. Tên thật: Nguyễn Thị Kỳ, Bút hiệu: duyenky. Trước 30.4.1975: giáo viên Toán Lý Hoa-Tư thục-Saigon-VN.