Hôm nay,  

Đoản Khúc Tháng Tám

17/08/200700:00:00(Xem: 117559)

Bài số 2067-1930-634vb6170807
 
Người viết là một thầy giáo từ Việt Nam, đi dạy đã gần 30 năm, qua Mỹ theo diện ODP. Đang làm manager tại một Trung Tâm dạy kèm sau giờ học. Ông là tác giả bài "Vào Mỹ theo diện ODP" đã phổ biến, và sau đây là bài viết mới của ông.

Với sinh viên học sinh, tháng Tám là tháng tựu trường khai giảng khóa học Mùa Thu.  Với những người Việt Nam lớn tuổi, tháng Tám, nhằm tháng Bảy Âm Lịch, là tháng của chia ly, xa cách, tháng của Ngưu Lang Chức Nữ mỗi năm chỉ được gặp nhau một lần nhờ chiếc cầu do những con quạ đen bắc ngang sông, cầu Ô Thước.  Riêng với Ngọc, tháng Tám thật buồn vì sự mất mát quá lớn lao đã để lại trong tâm hồn anh và hai con một vết hằn thật lớn và đậm nét.Vào ngày 31 tháng Tám cách đây tám năm vợ anh đã qua đời sau một cơn bạo bệnh. 

Ngọc và Kiều kết hôn vào mùa Giáng Sinh 1971.  Hôn lễ đã được cử hành tại một nhà nguyện nhỏ rất dễ thương nằm trên đường Tú Xương Sài Gòn, nhà nguyện Regina Pacis.  Lúc đó Ngọc dạy học tại Kiến Hòa và về nhà mỗi cuối tuần.  Hai năm sau vợ chồng anh sinh con trai đầu lòng, và cũng vào mùa Hè năm đó,anh được đổi về dạy tại một trường Trung Học ở Đà Nẵng.  Vợ chồng con cái sống thật hạnh phúc vì đi đâu cũng có nhau. Xem Lễ ở nhà thờ Chánh Tòa mỗi sáng Chủ Nhật, đi ăn uống, xem chiếu bóng hay tắm  biển Mỹ Khê vào mùa Hè, họ luôn luôn là ba người.

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, vợ chồng anh cũng như bao người khác, phải bương chải làm đủ thứ nghề, có tên và không tên!  Hai năm đầu tiên, những " chủ nhân mới của đất nước" không cho phép giảng dạy "hai ngôn ngữ của Thực Dân và Đế Quốc" là tiếng Pháp và tiếng Anh nên các giáo sư như anh, bấy giờ bị xuống cấp gọi là giáo viên, hoặc bị cho nghỉ việc hoặc là phải làm những công việc linh tinh khác. Đến năm 1977 thì "một số các ông lớn" mới thấy rõ tầm quan trọng của Pháp và Anh Văn nên "mời" các giáo viên đi dạy lại!  Vì sợ bị tịch thu nhà cửa-nếu trong gia đình không có ai là "công nhân viên nhà nước"-nên anh đành phải đi dạy với đồng lương "chết đói" chưa đủ uống cà phê trong vòng một tuần lễ (không ăn sáng)! Vợ anh phải chạy đôn chạy đáo buôn hàng chuyến, hay mỗi ngày lặn lội theo xe lửa từ Đà Nẵng ra Huế đổi tiền Nam ra tiền Bắc kiếm ít tiền lời lo gia đình.  Cực khổ nhưng vẫn vui vì vợ chồng con cái luôn quây quần bên nhau.

Đến đầu năm 1979, gia đình anh nhận được giấy tờ bảo lảnh của người chị từ Mỹ gửi về. Anh chạy ngược chạy xuôi để hỏi thăm phải nộp đơn ở đâu"  Không ai biết, và cũng chẳng có ai dám biết để trả lời cho thỏa đáng.  "Đất nước mình đã thống nhất rồi, anh lại có công ăn việc làm tử tế, tại sao lại phải bỏ nước ra đi"" là lập luận của rất nhiều người khuyên anh lúc bấy giờ!  Mòn mỏi chờ đợi gần như tuyệt vọng, đến giữa năm 1984 vợ chồng anh mới sinh thêm đứa con gái thứ hai, cách ông anh đúng một giáp!

Khoảng đầu năm 1989 thì "nhà nước" mới mở các văn phòng Dịch Vụ lo chuyện giấy tờ xuất nhập cảnh.  Vợ chồng con cái anh nộp hồ sơ và sau cùng cũng được lên phi cơ qua Mỹ sau mười hai năm ròng rã chờ đợi thủ tục. 

Qua Mỹ vào một thời điểm khá muộn màng: tuổi của anh lúc đó chưa đủ già để hưởng tiền trợ cấp, nhưng cũng không còn trẻ để tìm những công việc thích hợp với khả năng chuyên môn nên hai vợ chồng anh lao vào đủ các loại công việc kiếm sống để hai con được đi học toàn thời gian. Có những hôm đi làm về, cả hai vợ chồng đều mệt nhoài, nhưng khi nhìn thấy hai con cặm cụi học hành chăm chỉ và cũng đã lo xong cơm nước chờ bố mẹ về cùng ăn, Ngọc và Kiều cảm động muốn khóc và tất cả mọi mệt nhọc đều tan biến!  Mấy năm sau con trai đầu lòng của vợ chồng anh tốt nghiệp B.S. về Bio Chem. Trong ngày lễ tốt nghiệp, cả hai đã vừa cười vừa khóc.  Cười vì quá sung sướng, khóc vì một phần giấc mơ của mình phần nào đã thành hiện thực. 

Nhưng "điều gì vuông tròn quá cũng không tốt".  Anh đã từng nghe nhiều người lớn tuổi nói thế lâu nay, và mãi đến bây giờ anh mới tin!  Hai năm sau bỗng nhiên Kiều lâm trọng bệnh, một căn bệnh ngặt nghèo. Các Bác sĩ điều trị nói với cha con anh: "Căn bệnh nầy đàn bà hiếm khi mắc phải, nhưng nếu đã bị thì luôn luôn là ở vào trạng thái chót." Điều làm vợ chồng con cái không hiểu được là cả nhà không ai hút thuốc, không ai uống rượu cả mà vợ anh lại bị căn bệnh nầy.  "Chúa đã trao thánh giá thôi thì mình cũng ráng mà vác chứ biết làm sao giờ"", anh đã nói để an ủi vợ con, và để lên tinh thần cho chính anh nữa. Nhưng đã rất nhiều lần nữa đêm thức giấc, anh đã tâm sự với Chúa: "Chúa ơi, tại sao Chúa lại trao cho chúng con Thánh Giá quá nặng nầy"" 
Hằng tháng, rồi hằng tuần, anh lái xe đưa vợ vào bệnh viện để thử máu và vào chemo. Hết đợt chemo nầy đến đợt chemo khác, tóc cứ rụng rồi lại mọc, mọc rồi lại rụng.  Mười sáu tháng liên tục chuyền và thay đổi các loại thuốc khác nhau, căn bệnh chỉ chậm phát triển nhưng không dứt hẵn.  Và những tháng sau cùng thì Bác sĩ đã phải điều trị bằng radiation. Những ngày tháng đó, Ngọc chỉ ngủ mỗi ngày khoảng hai,ba tiếng.  Thời gian còn lại anh ngồi bên giường bệnh, cầm tay nàng và cầu nguyện vì biết rằng cha con anh sắp sửa mất đi một cái gì quí giá nhất trên đời.  Sau hai mươi tháng điều trị, Kiều đã rời bỏ cha con anh đi về miền vĩnh hằng ấy.

Ba cha con bỗng trở nên hụt hẫng.  Thiếu vắng một hình bóng thân thương, căn nhà bỗng dưng rộng rãi nhưng trống vắng hẵn! Nhìn hai con ngơ ngác vì thiếu Mẹ, anh thấy lòng đau nhói, và thấy mình phải làm thế nào để trụ thật vững vàng làm gương nếu không muốn thấy hai con bỏ dở việc học hành. Con trai anh chỉ còn một năm nữa là xong chương trình Pharmacy ở USC, con gái chỉ mới học lớp 10! 

Lo đám tang cho Kiều xong, và sẳn lúc đó củng đang bị thất nghiệp, anh ghi danh vào Golden West College đi học lại sau hơn ba mươi năm rời xa đèn sách, vừa để quên đi nổi đau buồn mất mát, vừa để cho hai con  thấy phải làm thế nào để đương đầu với sóng gió cuộc đời và không bỏ dở việc học.  Bài vở ở trường đã chiếm trọn thời gian giúp anh không còn giờ để suy nghĩ vẩn vơ buồn bã hay chán nản nữa. 

Anh vẫn thường khuyên hai con sau những buổi đọc kinh cầu nguyện chung: "Me đã được Chúa gọi về, đó là một điều diễm phúc.  Phần ba bố con chúng ta phải làm sao để Me ở trên đó vui lòng.  Điều mong ước lớn nhất của Bố Me là thấy các con ngoan ngoản và học hành thành đạt". Anh đã bật khóc khi nhìn thấy hai con đem tất cả các cords khen thưởng và shaw tốt nghiệp để trên bàn thờ Mẹ như một lời tạ ơn sinh thành dưỡng dục.

Một người bạn đồng nghiệp ở Việt Nam đã gửi qua bài thơ nhờ Ngọc đọc trong ngày lễ giỗ hằng năm của Kiều, bài thơ anh  đọc nhiều lần đến nỗi đã thuộc lòng:
                                       
" Em đi một buổi chiều Thu
Vẳng nghe trong gió lời ru não nề
Con đường sao quá lê thê
Anh như khách lạ tái tê cõi lòng
Còn đâu một giọng hát trong
Cho hồn anh vượt long đong cuộc đời
Anh chơi vơi giữa nụ cười
Rất nhân hậu của một thời yêu anh
Em, con chim nhỏ mong manh
Giờ nằm dưới gốc thông xanh trên đồi
Chiều nay đốt nén nhang vơi
Anh nghe trong gió thoảng mùi hương xưa
Em về mắt ướt ngẩn ngơ
Có nghe anh hát lời thơ tình buồn"
                                                   
Gửi hai con Khoa và Thiên Ân
để nhớ ngày giỗ Me 31 tháng 8

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 844,477,149
Tác giả lần đầu góp bài. Qua bài viết đầu tiên, đã thấy cách ông viết rất tinh tế, chu đáo, nhiều chi tiết sống động. Mong ông tiếp tục viết về nước Mỹ và vui lòng bổ túc sơ lược tiểu sử cùng địa chỉ liên lạc.
Tác giả sinh tại Saigon năm 1962, hiện cư trú tại Tulsa, Oklahoma. Nghề nghiệp: kỹ sư cơ khí, làm cho hãng Boeing, OKC. Học vấn: cao học. Gia đình: vợ và ba con: hai gái, một trai. Góp bài Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu tiên, Lê Như Đức là một tác giả rất được quí trọng. Mừng ông tiếp tục viết.
Tiếp theo chuyện “Saigon 68” đây là một hồi ức Mậu Thân về khu Thành Nội Huế. Định cư tại vùng Bắc Cali từ 20 năm trước, Deborath Tường Vân là nhân viên Sở Xã Hội San Jose và từng chăm sóc Bà Trùng Quang -vị niên trưởng của giải thưởng Việt Báo- liên tục hơn 6 năm cuối đời. Cô đã nhận Giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2012. Hồi ức Mậu Thân của Tường Vân là chuyện kể về khu Tây Lộc trong thành nội, nơi phải gánh chịu nhiều tang tóc nhất trong địa ngục Huế Tết Mậu Thân.
Capvanto là một bút hiệu khác của Philato, có lẽ do lối viết cách điệu từ Tô Văn Cấp, tên thật tác giả. Ông sinh năm 1944, từng là một đại đội trưởng thuộc TĐ2/TQLC, đơn vị có biệt danh Trâu Điên. Với nhiều bài viết giá trị, ông đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Bài viết mới của ông là một hồi ức về trận chiến năm Mậu Thân, khi Đại Đội TQLC do ông chỉ huy được biệt phái theo tướng Nguyễn Ngọc Loan trong trận chiến Mậu Thân tại Saigon 1968.
Tác giả là cư dân Garden Grove, California, lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ 2018. Ông qua Mỹ trong một gia đình H.O. từ tháng Sáu năm 1994, vừa làm vừa học và tốt nghiệp kỹ sư điện tử. Sau đây là bài viết về nước Mỹ thứ ba của ông.
Tác giả là cư dân Minnesota, đã nhận giải vinh danh tác giả Viết Về Nước Mỹ 2008. Với những bài viết thuộc nhiều thể loại đề tài, cô là một tác giả rất được bạn đọc yêu mến.
Định cư tại Mỹ từ 1994, Phương Hoa vừa làm nail vừa học. Năm 2012, bà tốt nghiệp ngành dạy trẻ tại Chapman University khi đã 62 tuổi và trở thành bà giáo tại Marrysville, thành phố cổ vùng Bắc Calif. Với loạt bài về Vietnam Museum, "Bảo Tàng Cho Những Người Lính Bị Bỏ Quên," tác giả đã nhận giải chung kết 2014 và vẫn tiếp tục gắn bó với Viết Về Nước Mỹ. Sau đây, thêm một bài viết mới của tác giả.
Tác giả tên thật Trần Năng Khiếu. Trước 1975 là Công Chức Bộ Ngoại Giao VNCH. Đến Mỹ năm 1994 theo diện HO. Đã đi làm cho đến năm 2012. Hiện là công dân hưu trí tại Westminster. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 8/2015. Đã nhận giải đặc biệt 2016. Nhận giải danh dự VVNM 2017.
Nhân thời điểm 50 năm sau trận chiến Mậu Thân 1968 Viết Về Nước Mỹ 2018 sẽ có thêm giải thưởng đặc biệt về “Hồi Ức Mậu Thân”. Sau đây, xin mời đọc một bài viết cũ của tác giả Võ Trang, một kỹ sư điện làm việc cho Bộ Hải Quân Hoa Kỳ tại San Diego, kề từ hồi ức đau thương về người cha bị cộng sản chôn sống trong trận Tết Mậu Thân 1968 tại Gia Hội, Huế, khi tác giả còn là cậu bé 15 tuổi. Bài viết đã nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ 2009.
Tác giả sinh năm 1929 tại Quảng Trị, Cựu Trung Tá QLVNCH, cựu tù cải tạo. Định cư tại Sacramento, Cali. Năm 1991; Hội trưởng sáng lập Hội Thơ Tài Tử Việt Nam Hải Ngoại từ 1994; Sách đã xuất bản: Truyện ký "Người Trai Thời Chiến"; tập thơ "Chuyện Ngày Xưa"; Từng nhận “Certificate of Recogni-tion do The Sacramento International Poetry Hall of Fame tại Đại Hội Thi Ca Quốc Tế Sacramento 2006; Tác giả hiện là cư dân thành phố Garland, Texas và là Hội Trưởng Hội Người Việt Cao Niên Dallas nhiệm kỳ 2016-2017. Cho tới nay, với tuổi 89, ông cũng là vị tác giả cao niên nhất trong năm 2018 dự Viết Về Nước Mỹ. Kính chúc ông vui khỏe.
Nhạc sĩ Cung Tiến