Hôm nay,  

Một Gia Đình H.O.: Cả Nhà Đi Học

26/09/200600:00:00(Xem: 129686)

Người viết: ĐỖ THỊ BÍCH DU

Bài số 1108-1717-430-vb2250906

*

Tác giả là cư dân Riverside, Nam California, 62 tuổi, công việc đang làm: Ở nhà trông cháu và làm thiện nguyện cho trường học. Bài Viết Về Nước Mỹ đầu tiên của bà là chuyện kể, hay tự truyện, của một gia đình H.O. chọn hội nhập nước Mỹ bằng con đường buồn chán nhất là “cả nhà đi học”.

*      *

Gia đình ông đặt chân lên đất Mỹ theo diện H.O., một chương trình tị nạn dành cho những cựu tù cải tạo sau 75.  Mặc dầu đủ điều kiện và chịu đựng gần 13 năm trong trại tù, hồ sơ của ông vẫn bị Bộ Nôi Vụ xếp loại "lý lịch đen"và không chịu cấp xuất cảnh. Cuối cùng do sự can thiệp của giơi chức Mỹ tại Bangkok, gia đình ông mới được gọi phỏng vấn và lên đường.  Gia đình gồm cha mẹ và bốn con, không ai bị kẹt ở lại. 

Bản thân ông vốn là một cựu giáo chức đã từng dạy học tai Vũng Tàu, đã du học  ngành Thông tin Quốc Phòng ở Mỹ từ cuối thập niên 60, nên vốn hiểu biết và trình độ Anh ngữ ở bậc khá. Tuy nhiên do thế giới biến chuyển quá nhanh; khoa học, kỹ thuật tiến bộ ở mức chóng mặt; lại ếch ngồi đáy giếng gỡ gần 13 cuốn lịch, và mới trở về vơí xã hôị khép kín chưa đầy 4 năm, nên phaỉ noí so vơí tuị trẻ ông có phần tụt hậu.  Vợ ông trình độ trung học, vốn là nôị trợ gioỉ quán xuyến gia đình, laị có ưu điểm là con cái nó chịu nghe bà nhiều hơn  ông. Một phần do bà có thêm credit vì biết xoay sở, chiụ đựng gioỉ và nếu cần đôí phó một cách can đảm vơí đám công an khu phố để nuôi dạy bốn đứa con thơ, chung  thủy vơí ông cho đến khi ông trở về từ miền Bắc.

Các con ông, đứa út đã 20, do phân biệt lý lịch không đứa nào có trình độ đaị học, kể cả cô gaí lớn, một cựu thủ khoa trong kỳ thi tuyển lớp 6 Trưng Vương 74.Trước khi đi, các con ông có tự luyện Anh ngữ, nhưng vì không được học ở Trung học nên trình độ chỉ tạm đủ ở mức đàm thoại thông thường.  Hành trang mang theo là tinh thần chiụ khổ đã quen, chị em đoàn kết gắn bó, gia đình có đức tin, ai nấy nóng lòng muốn lấy laị thơì gian đã mất.

Sang tơí Mỹ, sau những ngày  vui vẻ vì được đến một xứ văn minh giàu có, thoát được cảnh kềm kẹp, đoí nghèo, nay sắp hết trợ cấp, gia đình ông laị lâm vào cảnh khó xử, đi làm hay đi học, hay vừa học vừa làm"  Đi làm"  Các con ông vốn khỏe mạnh, chiụ khó, là một lực lượng lao động có thể sử dụng ngay. Nhưng kinh tế Mỹ đầu thập niên 90 đang hôì đi xuống, các hãng xưởng lay off hàng loạt, thảm haị nhất là ngành computer, một ngành các con ông háo hức muốn làm muốn học. Xin việc là một chuyện khó nếu không có nghề chuyên môn hoặc trình độ đaị học.  Đi học"  vốn có chí tiến thủ, thích học mà không được học ở quê nhà, nay laị đến một xứ khuyến khích sự học và tạo cơ hôị cho ngươì có chí, nên giaỉ pháp này nghe ổn, nhưng tiền đâu mà học, mà ăn" 

Cuôí cùng, nhờ sự chỉ dẫn và kinh nghiệm của một gia đình H.O. sang trước, gia đình ông nắm được các thủ tục phaỉ đi qua cùng các chính sách thuận lơị dành cho di dân.  Một baì toán được lý giaỉ, nếu cả nhà 6 ngươì cùng đi học full time, sẽ được tiền trợ cấp taì chính cho môĩ niên khóa, cộng vơí tiền lương tôí thiểu do làm Work Study cho trường (15-20 giờ môĩ tuần), cộng vơí tiền Loan được phép mượn nhờ thân nhân bảo lãnh, cùng vơí trợ cấp Fơod Stamps cho diện thu nhập thấp.  Cộng chung các khoản góp laị theo kiểu "góp gạo thôỉ cơm chung" thì coi như tạm ổn.  Chỉ có một điều kiện là moị ngươì phaỉ kiếm được tôí thiểu con C cuôí năm.  Bàn bạc xong, gia đình quyết chọn con đường đi học.

Thành phố ông ở là một thị trấn nhỏ vùng Inland Empire, nơi qui tụ bốn trường đaị học lớn nhỏ, trong đó có một trường cộng đồng (community college) rất thích hợp cho ngươì di dân.  Các con ông vào học trường này, ngoaì lơị điểm có giảng viên tận tâm, có tham vấn nhiệt tình, laị có không khí học tập rất phấn khơỉ vì có con caí gia đình các đợt H.O. đang cùng nhau phấn đấu nơi đất mơí. 

Bước đầu việc học hành coi như suông xẻ, các con ông đã hoàn tất các lớp căn bản đoì hoỉ phaỉ hôị đủ cho việc chọn ngành nghề tương lai.  Sự kiện cả gia đình đi học cùng quá trình caỉ tạo của ngươì cha đã gây sự chú ý và  một baì báo đuợc đăng trên tờ báo của trừờng về gia đình ông.  Laị noí về sinh hoạt, quả có những khó khăn.  Phương tiện di chuyển cho 6 ngươì là một chiếc Dodge cũ của ông cậu cho.  Mặc dầu trên 100.000 miles, nhưng phaỉ công nhận xe Mỹ khỏe hơn xe Nhật.  Chiếc xe như một con thoi chạy theo trục Bắc-Nam (Cali) trong thơì gian đi kiếm chỗ định cư. 

Ba năm sau, chiếc xe vẫn là một xe chung cho cả nhà.  Tôị nghiệp phía trước chỉ ngôì được hai chỗ, băng sau bốn mẹ con ngôì kiểu cá moì, may mà hôì đó luật thắt seat belt chưa nghiêm nhặt. Chỗ ăn ở thì di chuyển liên tục do sự thay đôỉ của  giá nhà, riết rôì không ai cho mượn truck phaỉ thuê U-Haul. Có lúc nhân sự phaỉ di tản để hai con ở nhờ gia đình một ngươì bạn Mỹ (sinh hoạt chung trong nhà thờ), có lúc bốn ngươì dồn vô một đơn vị gia cư.  Dù tiền nhà chiếm 1/3 ngân sách, gia đình ông vẫn không chịu xin housing, lý do con ông muốn ở nơi an ninh, tránh phức tạp và mặc cảm ăn trợ cấp. 


Rơì đaị học cộng đồng, vơí điểm GPA khá cao, các con ông chia ra nhiều ngả, đứa đi Texas, đứa sang Cal State, đứa qua Loma Linda, đứa xuống La Sierra, tóm laị đaị học công có, tư có chuyên về đào tạo và chuẩn bị cho ngành Y, một ngành không  sợ bị thất nghìệp, nhưng cũng không phaỉ là ngành dễ nhai. Sang đaị học 4 năm, học có vất vả hơn vì học kỳ ngắn hạn, quay đi quay laị là thi giữa khóa, cuôí khóa. Do không được chuẩn bị môn Reading (đọc nhanh, hiểu sâu) như các học sinh dươí high schơol, laị coi trọng luyện Viết nhiều hơn Đọc, nên có hạn chế khả năng bén nhạy trong các kỳ thi trắc nghiệm mà các con ông phaỉ trả giá khi học lên các lớp cao.  Sự chuyển trường cũng gây xáo trộn trong việc làm. Trừ cậu út sang Texas được trường cho chân Phụ Tá Phòng Lab, đủ trang traỉ chi phí ăn ở trong dorm (nôị trú), các anh chị bên Cali phaỉ kiếm thêm các job kèm trẻ, giữ  trẻ, trông ngươì già, chạy bàn, rửa chén... Cũng may, các sinh viên được các hãng tín dụng lớn xét cấp Visa, Mastercard, nên các con ông cũng chi tiêu theo hình thức này để đáp ứng các nhu cầu cá nhân, dù mức tiền được cấp chỉ ở mức tôí thiểu.

Sau gần năm năm, các con ông đều tốt nghiệp đaị học. Hai đứa theo ngành X-Ray và Nursing có công ăn việc làm ngay.  Hai đứa kia nhắm đích xa hơn, luyện thi để vào trường Nha và trường Y / Đaị Học Loma Linda.  Cửa aỉ MCAT (trắc nghiệm khả năng vào Y khoa) đã làm hai con ông chậm mất một năm.  Không nản chí, tiếp tục thi laị, cuôí cùng một được nhận vào Nha, một vào Y.  Bốn năm sau, vừa đánh vật vơí các khó khăn ngôn ngữ so vơí sinh viên bản xứ, vừa vất vả vơí các kỹ xảo, yêu cầu của nghiệp vụ, hai chị em đạt được mơ ước của mình.

Đến tuôỉ lấy chồng, con gaí lớn của ông đã bảo lãnh và kết hôn vơí một ngươì bạn học ở Sàigòn.  Anh là một Bác sĩ tốt nghiệp sau 75. Sang tơí Mỹ, hôị nhập vơí một gia đình có môi trường học tập, laị được tiếp cận vơí tiến bộ của y khoa hiện đaị, anh miệt maì hoàn tất từng bước các đoì hoỉ về lý thuyết và nghiệp vụ.  Năm năm sau, anh trở thành M.D. Mỹ và được cấp một xuất Nghiên cứu sinh về Lão khoa taị UC Irvine.  Học xong anh được giữ laị làm việc cho trường, chủ yếu là chăm sóc khám bệnh cho bà con cao tuôỉ của cộng đồng Việt Nam trong vùng Orange County. Ít năm sau, ngươì anh em cột chèo, nguyên là một bác sĩ nôị trú tim ở Chợ Rẫy, cũng được bảo lãnh và hoàn tất các bước như anh và được nhận làm việc cho Kaiser taị nam Cali. Đây cũng là một  nét đặc trưng của nước Mỹ vốn trọng dụng nhân taì và sẵn sàng đón nhận taì năng các xứ. Nhưng chuyện đôỉ bằng cũng không phaỉ dễ ăn, nhiều bác sĩ gioỉ đã phaỉ đôỉ nghề hoặc trở laị Việt nam vì thiếu sự hỗ trơ nhiệt tình của ngươì thân, hoặc do hoàn cảnh phaỉ bỏ thơì gian đi làm nhiều hơn học.

Laị noí thêm về ông, sang tơí Mỹ thì tuôỉ đơì cũng lỡ cỡ, ngoaì 50 đi xin việc coi như vô phương. Có ngươì mách ông xin tiền bịnh (hôị chứng trauma tù cộng sản), ông không chịu. Ông quay ra đi học vì Mỹ không phân biệt vấn đề này. Học chơi ăn thiệt vì ít lâu sau, Sở Học Vụ địa phương cần một chân Tutor để kèm cho các học sinh gốc Việt lứa tuôỉ mẫu giáo và lớp một.  Ông được nhận vì đủ tiêu chuẩn, tuôỉ tác laị là lơị điểm cho ông.  Sau một năm, biết đường đi nước bước, lại nhờ ngươì Mỹ có tật hay chỉ dẫn tận tình, nên ông khai có bằng Đaị học Sư phạm ở Việt nam và nộp đơn thi chứng chỉ CBEST (Trắc nghiệm khả năng  Đọc, Viết, và Toán cho các giáo viên Mỹ). Được nâng cấp trở thành giáo viên dự khuyết (Substitute Teacher), ông vui thỏa vơí công việc vì vừa yêu trẻ vừa hợp vơí khả năng.  Nay ở tuôỉ 65, làm việc đã đủ 10 tín chỉ, ông xin nghỉ dạy về kèm cho các cháu.  Ông cũng bỏ công môĩ tuần vaì giờ luyện tiếng Việt cho thế hệ thứ hai để chúng còn giữ được bản sắc Việt, văn hóa Việt.

Nhìn laị chặng đường 10 năm , tuy có daì nhưng chưa daì bằng thơì gian ông đi caỉ tạo. Thành công cũng có, khó khăn trục trặc cũng nhiều. Quả thật không gian nan khó thành đạt (no pain no gain) như ngươì Mỹ thường nói.

Thương cho các con, ăn uống ít khi được miếng ngon, đi tiệm laị là chuyện hiếm, mua sắm thì đồ rẻ, dồ sale, xe  thì cũ, tiền mặt thì kẹt, gần chợ Việt mà không được ăn đồ Việt..., học thì lo lên lo xuống, ăn con C kể như tiêu, tiếng Anh đôi khi bị "đì" vì giọng Á, mượn tiền học Nha, học Y giữa đường đứt gánh thì kể như đổ nợ, sang đôỉ bằng, bằng không đôỉ được, coi như công dã tràng.

Cũng phaỉ noí trong những năm tháng khó khăn này, bà vợ ông nôỉ bật như một bà mẹ có cá tính mạnh mẽ, đi học do hoàn cảnh đưa đẩy, học về phải lo cơm nước cho chồng con, đến lúc con đẻ thì ở nhà trông cháu cho con học. Dù cực nhưng bà vẫn là đầu tầu trong việc thúc đẩy, khích lệ các con, tuy đôi khi có tính cách gia trưởng kiểu xưa.

Nay nhìn laị, các con ông đã có công ăn việc làm ổn định, vơí trình độ đaị học, hậu đaị học; từ vị trí của kẻ hưởng trợ cấp đã chuyển sang ngươì đóng thúê; từ bước đầu chập chững của ngươì di dân xa xứ bước sang vị thế của một công dân hôị nhập vơí xã hôị Mỹ; từ mặc cảm lạc lõng của một ngươì đánh mất Tổ Quốc nay đã hòa mình đón nhận nơi này làm quê hương.

Nghĩ tơí đây lòng ông bỗng trào lên cảm xúc muốn tạ ơn Thượng Đế và muốn gắn bó vơí miền đất, nơi một thời đã cưu mang và tạo cơ hội cho gia đình ông.  

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 844,373,935
Định cư tại Mỹ từ 1994, Phương Hoa vừa làm nail vừa học. Năm 2012, bà tốt nghiệp ngành dạy trẻ tại Chapman University khi đã 62 tuổi và trở thành bà giáo tại Marrysville, thành phố cổ vùng Bắc Calif. Với loạt bài về Vietnam Museum, "Bảo Tàng Cho Những Người Lính Bị Bỏ Quên," tác giả đã nhận giải chung kết 2014. và vẫn tiếp tục gắn bó với Viết Về Nước Mỹ. Sau đây, thêm một bài viết mới của tác giả.
Tác giả là một nhà giáo, nhà báo, nhà hoạt động xã hội quen biết tại Little Saigon. Tới Mỹ theo diện Hát Ô Một từ 1990. Suốt 28 năm qua, ông không ngừng viết văn viết báo tiếng Việt, tiếng Anh. Trong năm qua, có tới 7 cuốn sách mới. Góp sức với Viết Về Nước Mỹ, ông đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ từ những năm đầu, và vẫn tiếp tục thêm bài mới.
Tác giả là một dược sĩ tại Toronto. Với bài viết đầu tiên “Hai Bà Đầm,” ông đã nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ 2011. Ba năm sau, 2014, ông góp thêm bài “Hồi Ký Của Một Người Tên Ông.” Năm 2016, thêm bài “Bà Mẹ Tây” hay “Thằng Tầu Con của Mẹ.” Sang năm 2018, thêm bài thứ tư, “Đứa Con Lai...Hải Tặc.” Bài viết mới thứ 5 “Chuyện Tình...Hải Tặc” là phần kết của câu chuyện. Bạn đọc Viết Về Nước Mỹ trên Việtbao Online chỉ cần double click vào tên tác giả ở đầu bài, sẽ thấy bài cũ của cùng tác giả. Bài đăng 2 kỳ. Tiếp và hết.
Tác giả đã nhận giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2017. Ông hiện sống và làm contractor (hợp đồng) ngành hàng không ở Vail, Arizona cho quân đội Mỹ, và từng tình nguyện tới chiến trường Trung Đông, sống trong trại lính, làm việc theo một hợp đồng dân sự. Chuyện làm việc ở Trung Đông, bài đầu đã được phổ biến ngày 4 tháng 5. Sau đây là bài viết thứ hai, chuyện của một dân sự gốc Việt từ căn cứ Mỹ tại Afganistan.
Tác giả tên thật Huỳnh Thị Huệ, 69 tuổi, đến Mỹ năm 1991 theo diện HO. hiện đang là cư dân Downey, California. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà là chuyện đau thương có thật của gia đình, khi ntgười con trai tử nạn trên xa lộ vì bị một anh Mễ không giấy tờ say rượu lái xe.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ năm 2017. Bà sinh năm 1951 tại miền Bắc VN, di cư vào miền Nam 1954, là thư ký hành chánh sở Mỹ Defense Attaché Office (DAO) cho tới ngày 29 tháng Tư 1975. Vượt biển và định cư tại Mỹ năm 1980, làm thư ký văn phòng chính ngạch tại City of San Jose từ 1988-2006. Về hưu vào tuổi 55, hiện ở nhà chăm nom các cháu nội ngoại. Sau đây là bài viết thứ tư của bà.
Tác giả dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu, đã nhận giải bán kết 2002 với bài "Tiểu Hợp Chủng Quốc" kể về nơi cô làm việc, khi khủng bố tấn công nước Mỹ ngày 9 tháng 11 năm 2001. Bài viết gần đây là ký ức Mậu Thân của cô bé thời mới lớn. Và sau đây, thêm một bài viết mới.
Từ 2005, tác giả Hoàng Đức, một nhà giáo hưu trí tại Westminster, góp bài “Dodautre tại Mỹ” và nhận giải đặc biệt Viết về Nước Mỹ. Mười ba năm sau, 2018, thêm một bài mới của Hoàng Đức 2018. Theo tiểu sử do tác giả mới tự sơ lược, tại Việt Nam, 1963-1975, ông là Giáo sư Trung học Đệ nhị cấp. Sau 1975 là mười năm thất nghiệp. Công việc tại Hoa Kỳ từ 1985: High School Teacher; College Instructor, sau đó là Social Worker. Về hưu từ 2002. Mong ông tiếp tục viết và bổ túc địa chỉ liên lạc.
Tác giả cùng hai con gái tới Mỹ ngày 27 tháng Bảy năm 2001 theo diện đoàn tụ. Mười sáu năm sau, bà hiện có tiệm Nails ở Texas và kết hôn với một người Mỹ. Với sức viết giản dị mà mạnh mẽ, tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ năm 2017. Bài viết mới của bà là chuyện tấm hình một cô bé học trò 15 tuổi. Tấm hình từng qua tay kẻ trộm, trở thành bùa hộ mạng của một thuyền nhân, với những tình tiết éo le dài gần một đời người lưu lạc.
Tác giả từng nhận giải Viết Về Nước Mỹ 2015. Ông là cựu sĩ quan VNCH, giảng viên trường Sinh ngữ quân đội, cựu tù cải tạo. Ông cũng là tác giả sách "Hành Trình về Phương Đông" do "Xây Dựng" xuất bản năm 2010. Mới nhất, là cuốn "Within & Beyond" do tác giả viết bằng Anh ngữ và tự xuất bản. Sau đây, thêm một bài viết mới.
Nhạc sĩ Cung Tiến