Hôm nay,  

Hoa Mai Vườn Cũ

09/01/200600:00:00(Xem: 114215)
Người viết: HOÀNG YẾN

Bài số 918-1518-242-vb2010906

*

Tác giả tên thật là Nguyễn Hoàng Yến, sinh năm 1949 hiện cư ngụ tại San Jose và đang là nhân viên thẩm mỹ. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà là “Tìm bạn bốn phương”, một chuyện tâm tình. Gần nhất, là bài “Lấy Chồng Xa Xứ”. Lần này, là chuyện tình mùa xuân kể bằng giọng một ông “năm bó.”

*

Ai gặp tôi cũng hỏi rằng:

- Sao sống cu ky hoài vậy" Xa xứ gần ba mươi năm rồi. Phải lo cho mình một mái ấm gia đình đi chứ.

Tôi cười cười, nói vui:

- Trai ba mươi tuổi còn son mà.

- Nhưng ông gần“ năm bó” rồi đấy.

Tôi giật mình:

- Ừ ! Mình đã già thật rồi! Thế thì khỏi.

Thực ra, nhiều lúc tôi đến thăm nhà bà con hay bè bạn, thấy cảnh người ta hạnh phúc mà thèm. Cùng thời với tôi, ai cũng có con có cháu đầy đàn. Đa số đều đã thành danh, nên duyên nên phận nơi xứ người cả. Sống ở Mỹ gần ba mươi năm nhưng nghĩ về Việt Nam lòng tôi không nguôi thương nhớ. Nơi đó còn có hình bóng của Trúc Quỳnh - người con gái cả đời tôi yêu dấu. Cha của Trúc Quỳnh là một Phó Tỉnh Trưởng. Mẹ của Trúc Quỳnh là giáo sư. Sau ngày mất nước năm 1975, gia đình Trúc Quỳnh tan nát. Cha đi tù. Mẹ dẫn bốn con đi vùng kinh tế mới. Chưa đầy hai năm, mẹ và chị em Trúc Quỳnh không chịu nỗi gian nan, trở về sống nơi nhà cũ. Nói là nhà cũ nhưng đó chỉ là một căn chòi đủ để che nắng, trú mưa. Oái oăm thay căn chòi ấy “được phép” dựng lên trước căn nhà của nàng. Ai có ở trong cảnh hằng ngày nhìn vợ con cán bộ đi ra đi vào nhởn nhơ trước mắt mình. Cười nói oang oang trong căn nhà của mình. Đi chung cổng với mình, mới thấy hết đắng cay, cùng cực của nỗi buồn nước mất, nhà tan. Những buổi chiều mưa đến thăm nàng, chứng kiến cảnh khói bếp un bằng bẹ lá dừa làm cả nhà ho sặc sụa. Gió tạt, mưa tuôn. Thảm quá! Bữa cơm chiều sửa soạn trong quạnh hiu.

Có lần bàn tính chuyện vượt biên Trúc Quỳnh than thở :

- Ba của Quỳnh đi tù không có án. Biết ngày nào ra. Mẹ thì đau tới đau lui thuốc men còn không đủ. Làm gì dám tính đến chuyện ra đi"

Tôi hứa sẽ lo cho nàng mọi chi phí. Tàu này của Bác ruột tôi. Nàng cũng kể tôi nghe dự tính tương lai của cả nhà. Chắc rồi đây mẹ nàng sẽ về Sa Đéc. Ông bà ngoại nàng có một vườn mai. Có cả những gốc bonsai cao giá.Tết nào cũng bán cây kiểng ở chợ hoa cuối năm được rất nhiều tiền. Thôi thì “tiến về nội, thoái về ngoại” vậy.

Tôi khuyên nàng bớt bi quan. Rồi sẽ ổn thôi! Đến bến bờ tự do mình sẽ có tương lai tươi đẹp. Ở đây sống khổ, chết chùm sao"

Chuyến đi không dễ dàng như tôi tưởng. Những chiếc ghe nhỏ chưa kịp đưa hết người ra tàu lớn thì công an tới. Chiếc ghe chở Trúc Quỳnh cuống cuồng chạy trốn. Đường đời muôn hướng, hễ chia xa là lạc mất, ai ngờ!

Nhiều năm tháng qua đi.Tôi có nhờ người quen, bạn bè dò hỏi tin tức Trúc Quỳnh khi họ về Việt Nam. Tất cả trả lời không gặp, không biết. Thậm chí có người còn chịu khó đến tận Lô J cư xá Bắc Hải cũng không tìm thấy căn chòi xưa đâu. Buồn quá!

*

Thành phố Sàigòn buổi chiều hai mươi chín Tết thật nhộn nhịp. Các nẻo đường vào chợ Bến Thành nườm nượp xe cộ lại qua. Hải đề nghị chở tôi đi một vòng. Bắt đầu từ Cư xá Lữ Gia qua Nguyễn văn Thoại. Quẹo vào Nguyễn Tri Phương. Dọc theo Lý Thái Tổ, Hồng Thập Tự , Lê văn Duyệt, Gia Long. Chợ Bến Thành ánh điện sáng choang, rực rỡ. Giữa lòng phố thị hoa đèn ấy, tôi bắt gặp nhiều thiếu phụ quang gánh trên vai. Hối hả trở về một nơi nào đó, khi gánh hàng rong chưa vơi mà đêm đã xuống rồi. Tết cổ truyền ở quê nhà thật thiêng liêng và ấm áp làm sao. Gần ba mươi cái Tết ở quê người hầu như tôi không nhớ Xuân về lúc nào. Hãng xưởng vẫn làm việc. Khu chợ Việt Nam cũng có mai, có đào, có cúc. Cũng có bánh tét, bánh chưng. Cũng có củ kiệu, dưa hành. Cũng có mứt gừng, mứt bí. Cũng có chà là, hồng khô. Nhiều, nhiều lắm. Đâu có thiếu món nào. Nhưng người dân Việt tha hương vẫn thấy không điều gì có thể lấp đầy khoảng trống trong lòng về tự tình dân tộc.

Nhớ những cái Tết thời thơ ấu mà vui. Cuối tháng chạp âm lịch là khoảng thời gian tất bật nhất của mọi người. Bà tôi chuẩn bị khoanh những vựa chứa lúa bằng phên cót. Các tá điền rộn rịp gánh lúa tới. Tôi hãy còn là cậu bé mười hai nên bà cho ngồi bên gốc bưởi trước hiên nhà. Trên sân gạch rộng, mỗi lần gánh lúa trút ra sân, tôi bỏ vào thùng một chiếc đũa. Xong, bà tôi sẽ biết có bao nhiêu giạ lúa vừa thu. Những tá điền cũng đem biếu bà tôi thật nhiều cá: cá lóc, cá trê, cá rô phi, cá chạch, lươn…

Ba ngày Tết con cháu về đông. Bà tôi kho nồi thịt kho tàu thật lớn. Ăn với dưa giá, dưa cải, dưa hành. Chúng tôi mặc quần áo mới với những viên pháo chuột trong tay và bao lì xì đỏ. Trước ngõ nhà có cây vông vang. Trụi lá trơ cành từ mùa Đông, đến Tết nở hoa đỏ rực trong nắng sớm. Cơn gió thoảng qua, những cánh hoa bay bay, rơi xuống, nằm yên trên nền cát mịn. Mấy con chim sáo nhảy nhót vờn hoa, hót líu lo. Cảnh mùa Xuân thật êm đềm và tươi đẹp.

Mãi chìm đắm trong ký ức ngày Xuân xưa, tiếng Hải kéo tôi về thực tại:

- Mình vào chợ hoa Nguyễn Huệ nghe. Về đây mà không đi chợ hoa thì tiếc lắm.

- Ừ! Vào thì vào.

Tôi trả lời buông thỏng.

Không khí buổi chiều đã se se lạnh. Dù cái lạnh ở đây đâu thấm gì so với Virginia hay Washington State ở Mỹ. Đi giữa một rừng hoa tràn ngập sắc hương, lòng chợt thấy dịu đi những lo toan của cuộc đời thường. Thượng Đế thật kỳ diệu! Ngài đã mặc cho mỗi loài hoa một sắc áo, một thức hương. Chỉ mỗi loài hoa cúc trắng, vàng, cúc vạn thọ đan xen cũng đủ cho lòng Xuân rộn rã. Đây hoa hồng: hồng bạch, hồng thắm, hồng vàng, hồng cam, hồng tỉ muội… Đó nhiều loại hoa lan. Kia hoa đào. Cẩm tú cầu, mãn đình hồng, hướng dương, mẫu đơn, thược dược và có cả những chậu hoa sứ, hoa mười giờ nữa. Một chu vi rộng lớn làm tôi chú ý, chen đầy những chậu mai vàng, xương rồng và cây kiểng ở phía bên kia. Những chậu bonsai dáng lạ. Thật đáng quí thay những bàn tay khéo léo và đôi mắt thẫm mỹ của các nghệ nhân.

Hải muốn mua hai chậu cây kiểng hình con nai. Tôi thích dạ lý hương và một gốc mai vàng cao chưa đến ba gang tay rất đẹp. Bất chợt tôi xoay người lại vì hình như có ai đang nhìn mình. Bốn mắt giao nhau. Tôi không thể nào tin dù đây là thực tại. Trúc Quỳnh của tôi! Không lẫn vào đâu được. Vẫn là đôi mắt buồn mà biết cười. Vẫn có đồng tiền điếu nơi khoé miệng. Vẫn giọng nói nhẹ nhàng như tháng ngày xưa. Chỉ khác một điều: Mái tóc nàng ẩn hiện nhiều sợi bạc. Có lẽ nàng không nhận ra tôi khi mời gọi:

- Mời ông xem mai vàng năm cánh. À! Mà hai ông có thích những chậu bonsai dạ lý hương không"

Tôi gật đầu, cố kìm nén sự oà vỡ trong lồng ngực.

Trúc Quỳnh nói như tâm sự:

- Chúng tôi chỉ bán đến mười hai giờ trưa mai thôi. Trả lại nơi nầy cho người ta dọn dẹp.

Hải hỏi:

- Chị về đâu" Ở đây, người ta làm sao với những hoa kiểng còn lại"

- Chợ ba mươi là chợ của người nghèo mà. Mua vội và bán cũng vội. Còn thì người bán vứt đi. Nhưng tôi sẽ mang về tất cả. Công khó của cha tôi khi còn khoẻ mạnh đấy.

Tôi hỏi dồn:

- Xin lỗi! Năm nay ông cụ nhà chắc cao tuổi rồi"

Nàng đáp mà mắt nhìn xa xôi:

- Dạ cha tôi gần bảy mươi tuổi. Nhưng tù đày…

Nàng im bặt, xoay mặt vào mấy chậu mai. Những giọt nước mắt rơi xuống, rơi vào tim tôi rát buốt, xót xa. Tôi hỏi:

- Tôi muốn mua mười lăm chậu bonsai mai vàng và mai chiếu thuỷ, ở nhà còn không …chị"

- Dạ còn. Nhưng hết ngày, hết tháng, hết năm rồi.Tôi không thể chở lên Sàigòn kịp. Xa. Rất xa!

Tôi bàn:

- Hay là tôi thuê xe du lịch tốc hành,…chị…dẫn đường được không" Đi tận đâu"

- Lấp Vò – Sa Đéc. Làm sao ông trở về kịp"

Tôi vẫn nhất định:

- Không sao! Tôi có bà con ở gần đó. Hoặc tôi sẽ về trong đêm.

Hải nhìn tôi trân trân, khi nghe tôi hẹn:

-Mai …chị…về sớm chút đi. Mười giờ sáng nhé.

*

Chiếc xe chạy từ thành phố Sàigòn ra vùng ngoại ô trong gió giao mùa dìu dịu. Bầu trời xanh không gợn chút mây. Tôi chưa biết mở đầu câu chuyện thế nào thì xe đã qua Bến Lức rồi tới Ngã Ba Trung Lương. Kìa!Bến phà Mỹ Thuận không còn nữa. Chiếc cầu được mệnh danh là Cây cầu Thế Kỷ trước mặt, trên dòng sông hiền hoà, lao xao. Tôi nhớ thơ của A.H Trần Ngọc Hưởng:

Sông Hậu là chồng, sông Tiền là vợ,

Như hoa lòng ngàn thuở nhớ thương nhau…

*

Nắng chiều soi hàng giậu lưa thưa với những cây xương rồng, lá hổ bì, cây đinh lăng đưa tôi vào căn nhà tranh vách đất nhưng rất là sạch sẽ. Tất cả vật dụng trong nhà đều bằng tre, trúc. Tôi chào ông cụ. Ông đưa đôi mắt buồn, mệt mỏi nhìn tôi. Trúc Quỳnh nói thật to:

- Cha ơi, người khách nầy muốn mua mai.

Ông cụ gật đầu, không nói gì.

- Cha tôi bị stroke ba năm rồi…Mời ông đi xem mai. Kẻo trễ.

Tôi cúi xuống nâng mấy dây mắc cở vừa run run khép lá theo dấu chân người. Trúc Quỳnh bỗng hét lên, loạng choạng. Tôi còn lúng túng thì nàng gọi:

- Anh Quốc. Anh còn sống sao"

- Phải! Anh đây.

Trúc Quỳnh nắm lấy tay tôi:

- Nếu không có vết sẹo dài làm sao em nhận ra anh"

Tôi cảm động quá! Cũng bàn tay nầy, gần ba mươi năm xưa - trong căn chòi trống trước trống sau - đã giang ra đánh tạt trái dừa rớt từ trên cao xuống khi Trúc Quỳnh khom khom thổi lửa nấu bữa cơm chiều. Nàng suýt bể đầu, còn bàn tay tôi phải khâu bảy mũi.

Nàng bắt đầu kể chuyện tôi nghe: Ngày ấy,…Khi chiếc tàu lớn đưa tôi ra xa ngoài khơi rồi. Nàng chạy bộ theo nhóm người còn lại. Nhờ ơn Thượng Đế gặp được một gia đình nông dân tốt bụng cho ngủ tạm qua đêm. Rạng sáng còn đưa ra lộ lớn, đón xe để nàng trở lại Sàigòn. Hai năm sau cả nhà dọn về Sa Đéc khi ba đứa em nàng vượt biển và vĩnh viễn đi vào lòng biển khơi. Cha nàng ra tù sau mười hai năm…Sống như người ẩn dật. Mỗi ngày chăm sóc cây kiểng làm vui bên cạnh người vợ già nua, mù loà vì năm tháng quá khổ đau, nhiều nước mắt.

Tôi siết chặt tay Trúc Quỳnh. Nàng vẫn để yên như thế. Tôi nói nàng nghe quyết định của tôi:

- Anh sẽ trở về thăm lại quê hương nhiều lần nữa. Hãy cho phép anh góp phần phụng dưỡng mẹ cha. Cho đến một ngày mình lo tròn chữ hiếu. Nhất định mình sẽ ở bên nhau. Hãy tin anh! Cám ơn Thượng Đế đã cho anh còn sống và còn gặp lại em.

Trúc Quỳnh nhìn tôi bằng cặp mắt đỏ hoe dù môi nàng đang nở nụ cười sung sướng:

- Vâng! Anh Quốc ơi! Mỗi mùa Xuân em vẫn đợi anh về thăm hoa mai vườn cũ…

HOÀNG YẾN

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 844,365,428
Tác giả là một kỹ sư công chánh, cư dân Torrance, California, đã góp một số bài Viết Về Nước Mỹ từ năm 2002. Ông cũng đã xuất bản một số du ký như: “Á Châu Quyến Rũ”, tập 1 & 2 và “Đi Cruise Bắc Mỹ” hiện có bán tại các nhà sách trong vùng Little Saigon. Bài viết mới của tác giả kỳ nầy nói về một đề tài khác là những niềm vui khi “chơi” facebook.
Đây là tự sự của một thành viên tham gia chương trình VVNM. Tác giả bắt đầu tập viết ở tuổi 70 (2015), trong thời gian hai năm đã vượt qua mọi khó khăn và đã đoạt được giải Danh Dự (2016) và giải Vinh Danh Tác Phẩm (2017). Tác Giả quê quán ở Bến tre, sang Mỹ năm 1973, môt chuyên viên kỹ thuật về hưu, đang định cư tại Orange County. Hiện ông vẫn tiếp tục viết với sức sáng tác mạnh mẽ.
Tác giả từng sống ở trại tỵ nạn PFAC Phi Luật Tân gần mười một năm. Ông tên thật Trần Phương Ngôn, hiện hành nghề Nail tại South Carolina và cũng đang theo học ở trường Trident Technical College. Với bài "Niềm Đau Ơi Ngủ Yên" viết về trại tị nạn Palawan-Philippines, Triều Phong đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ. Bà sinh năm 1951tại miền Bắc VN, di cư vào miền Nam 1954, là thư ký hành chánh sở Mỹ cho tới ngày 29 tháng Tư 1975. Vượt biển và định cư tại Mỹ năm 1980, làm thư ký văn phòng chính ngạch tại City of San Joje từ 1988-2006. Về hưu vào tuổi 55, hiện ở nhà chăm nom các cháu nội ngoại. Bài đầu tiên của bà, “Cả Đời Tôi Làm Thư Ký Sở Mỹ. Sau đây là bài viết thứ hai của bà.
Tác giả là trưởng ban Tuyển Chọn Chung Kết giải Việt Báo từ năm 2017. Tham gia Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu, bà nhận giải chung kết VVNM 2001, với bài “32 Năm Người Mỹ Và Tôi” và vẫn tiếp tục viết. Bà hiện làm việc bán thời gian cho National-Interstate Council of State Board of Cosmetology (NIC) và là cư dân Westminster. Bài mới nhất là chuyện mấy bà mấy cô đi chụp quang tuyến để khám ung thư ngực.
Tác giả Hồ Nguyễn, cư dân Buffalo, NY. đã dự Viết Về Nước Mỹ từ hơn 10 năm trước Bài viết đầu tiên của ông là "Kinh 5 Dị Nhân" kể về vùng quê, nơi hơn 1000 người -phân nửa dân làng- vượt biên mà có tới hơn 400 người tử vong... Hiện ông đang là cư dân Orlando, FL. và bài mới là chuyện về một số người thành công, một đề tài mà ông đã được mời nói chuyện tại Đại Học Buffalo.
Anthony Hưng Cao là một Bác sĩ nha khoa, hiện hành nghề tại Costa Mesa, Nam Cali, từng nhận giải Tác Giả Xuất Sắc 2010,với hồi ký "My Life" chia sẻ kinh nghiệm học tập của ông. Ngoài nghiệp y khoa, ông còn là người viết văn, soạn nhạc và luôn tận tụy với sinh hoạt nghệ thuật, văn hóa, giáo dục. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Tác giả cùng 2 con gái tới Mỹ ngày 27 tháng Bảy năm 2001 theo diện đoàn tụ, hiện có tiệm Nails ở Texas và lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ năm thứ XIX. Bài viết mới của bà kể về nghề lái taxi tại Huế và người khách đặc biệt là một nhạc sĩ gốc Việt danh tiếng ở Mỹ.
Tác giả hiện là cư dân Arkansas, đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2017. Bà tên thật Trịnh Thị Đông, sinh năm 1951, nguyên quán Bình Dương. Nghề nghiệp: Giáo viên anh ngữ cấp 2. Với bút hiệu Dong Trinh, bà dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7, 2016, và luôn cho thấy sức viết mạnh mẽ và cách viết đơn giản mà chân thành, xúc động. Sau đây là bài viết mới nhất.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ năm 2017 và đây là bài viết thứ ba của ông. Ông tên thật Trần Thanh Hiền, sinh năm 1955 tại Thạch Hãn, Quảng Trị, định cư tại Tulsa, Oklahoma từ 1977. Sau 35 năm làm Engineering Designer trong ngành Safety Technology – Fire Protection (Kỹ Thuật An Toàn – Phòng Chống Lửa), đã về hưu năm 2015, khi vừa tròn lục tuần, hiện là thông dịch viên hữu thệ tiếng Việt cho Tulsa County District Court và làm thiện nguyện tại Tulsa Catholic Charities.
Nhạc sĩ Cung Tiến