Hôm nay,  

Bạc Lòng

21/11/200500:00:00(Xem: 136199)
Người viết: HOÀNG YẾN

Bài số 876-1467-203-vb3112205

*

Tác giả tên thật là Nguyễn Hoàng Yến, sinh năm 1949 hiện cư ngụ tại San Jose và đang là nhân viên thẩm mỹ. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà là “Tìm bạn bốn phương”, một chuyện tâm tình. Gần nhất, là bài “Lấy Chồng Xa Xứ”. Lần này, khác với lệ thường, là chuyện kể bằng giọng một ông than phiền về “miệng lưỡi đàn bà.”

*

Tôi hồi nhỏ mồ côi cha sớm. Về ở với Bà ngoại lúc chưa tròn sáu tháng tuổi. Nghe nói cha tôi la con trai nhàgiàu. Chỉ lo ăn học va thì giờ rảnh rỗi thì đờn ca tài tử. Cha tôi hay mặc bộ bà ba trắng bằng lụa. Đi đôi guốc gỗ vông va đội nón cối màu trắng. Còn mẹ tôi là con điền chủ. Lo may vá, thêu thùa, bánh mứt.Vậy thôi! Bàngoại tôi goá chồng năm hai mươi hai tuổi. Có được ba người con. Cậu Cả tôi học trường Tây. Nói tiếng Tây như gió. Cậu Út tôi chán đi học chữ. Thích học đàn guitar. Về sau trở nên danh cầm cùng thời với Văn Vĩ - Sáu Tửng ở Sài Gòn. Mẹ tôi là gái. Được cưng lắm. Nhưng không được học quá bậc Tiểu Học. Ba tôi nói: Con gái học cao lo gởi thư cho trai. Mẹ tôi giỏi văn chương thi phú.

Nhờ đọc sách nhiều và có thể do khả năng thiên phú. Thế rồi, một chiều kia Cậu Cả tôi dẫn cha tôi về nhàngoại chơi. Cũng gần thôi. Đầu trên xóm dưới vậy mà. Cha Mẹ tôi âm thầm hoạ thơ gởi nhau. Được sáu mươi bài thơ thì thành vợ chồng. Sau cha tôi làm y sĩ cho Việt Minh và chết trong lần lính Tây đi ba trui.

Bà ngoại tôi làm chủ hai mươi mẫu ruộng. Sương phụ giàu một nách ba con. Chăm nom con cái rồi chăm luôn đứa cháu côi cút là tôi. Bàngoại tôi hay kể cho tôi nghe nhiều câu chuyện đời xưa vào những đêm trăng sáng. Tôi thích nhất câu chuyện Cứu vật - vật trả ơn. Cứu nhơn nhơn trả oán. Lời dặn dò của Ba tôi la hành trang sẽ theo tôi đến suốt cuộc đời:

Làm người ở đời phải biết sống có nhân có nghĩa. Thương người như thương mình.

Tôi lớn lên giữa thời chinh chiến. Rời xa quê nhàđi Sàigòn học. Rồi vào trường Bộ binh Thủ Đức. Lăn lộn với khói súng, đạn bom mấy năm làvào trại tù Cộng Sản gần mười năm. Lúc được tha đầu sớm bạc. Muối nhiều hơn tiêu rồi! Nhưng hai chữ bạc lòng mới thật sự làm cho tôi đau đớn.

Năm ấy...

*

Rời quân trường, đi vào chiến trường Pleiku sôi động. Một kỳ phép ngắn ngủi đủ cho tôi vàPhượng nên duyên vợ chồng.

Phượng không đẹp lắm. Dáng người tròn trịa, dễ nhìn. Hơn nữa giọng nhè nhẹ của: cô em Bắc kỳ nho nhỏ làm tôi mê mệt.

Cũng giọng nói ấy, mười lăm năm sau như có pha chanh, pha khế khi tôi từ nhàtù Cộng Sản trở về. Cái thất bại của một hàng binh kéo theo cái thất bại của cột trụ gia đình.

Mười năm sau nữa...

Sang Mỹ, chúng tôi ly dị. Người ta nói khi đôi vợ chồng cầm bút ký vào tờ giấy ly hôn la có một con dao vô hình đã chẻ đôi con cái của gia đình ấy. Phải! Tội nghiệp Phương con gái của tôi. Ngày chia tay cho Phương theo mẹ, tôi không quên đôi mắt tròn ngây thơ đẫm lệ nhìn cha, khi Phương bị mẹ kéo ra xe. Thế làhết!

Quá chán chường ngao ngán. Tôi dùng kỳ nghỉ phép nhiều năm bay về Việt Nam thăm mẹ. Rồi tôi gặp lại Trang. Cô bạn cũ ngày xưa. Trang kể tôi nghe cảnh làm vợ làm dâu quá nhiều bất hạnh vàđàn con năm đứa của nàng. Trang muốn ly dị người chồng vô trách nhiệm. Suốt ngày chỉ lo cá độ đá gà và nhậu nhẹt liên miên. Trang kể tôi nghe lòng khát khao được đổi đời. Nàng nói phải chi nàng có ít con thôi.

Phải chi tôi đừng thù ghét đàn bà. Phải chi có phép nhiệm mầu, nàng lội biển ma qua Mỹ. Không biết sao tôi động lòng thương. Tôi muốn làm hiệp sĩ.

Một năm sau Trang gặp tôi tại San Jose với năm đứa trẻ. Chúng tôi thuê một apartment và chung sống với nhau.

Hồi trước có một đứa con màbây giờ làm cha năm đứa tôi thấy vui. Phải nói các con nàng khá ngoan. Đứa lớn nhất 12 tuổi. Đứa bé nhất 7 tuổi. Chúng vui vẻ vàồn ào suốt. Trang cứ luôn miệng nói với tôi:

- Anh có mệt không" Tụi nhỏ làm ồn quá. Vào trường hết thì đỡ anh à.

Tôi cười sảng khoái.

-Thương mẹ bế con mà. Vả lại, tính anh thích trẻ con lắm. - Vậy làem mừng. Chỉ lo anh bị bực mình. Cảm ơn anh.

Một năm, hai năm trôi qua trong bình yên, phẳng lặng. Thỉnh thoảng tôi có nhớ đến Phượng vàcon tôi: bé Phương. Nhưng sau năm lần bảy lượt tới thăm màPhượng không cho gặp thì tôi ngao ngán. Tôi không kiên nhẫn nữa. Tự nhủ: Chờ đi. Rồi lá rụng về cội. Đối với tôi, người vợ cũ chỉ còn trong kỷ niệm. Dù làkỷ niệm đau thương.

Ngày đưa Trang đi thi Quốc tịch, nàng hỏi tôi:

- Anh Trường , em có Quốc tịch rồi anh về Việt Nam với em một chuyến đi.

- Có lẽ mình thay phiên nhau về em à. Em tính xem. Hai vợ chồng vànăm đứa con. Tiền vé máy bay không cũng đủ mệt. Em quên năm nay Trung đã mười tám tuổi rồi sao"

- Hay anh cho em về trước đi. Năm sau anh về. Được không anh"

Tôi suy nghĩ. Trang về vội làm gì cho tốn tiền" Từ từ cũng được mà. Mẹ của Trang

mất cách đây ba năm. Còn bố Trang mất khi Trang vừa tới Mỹ hai tháng. Mau thật! Mới ngoảnh đi ngoảnh lại đã sống với nhau sáu năm rồi. Trung, Trinh, Hiền , Thục đều đã lớn. Không còn tèm lem như lúc mới sang.

Trang cũng không còn nét mặt sầu tư, u uất nữa. Da dẻ mịn màng. Đi với nàng, tôi nhớ câu ca dao:

Ra đường thiếp hãy còn son,

Về nha thiếp đã năm con cùng chàng.

Dù tôi không phải làcha năm đứa trẻ nhưng Trang khéo dạy con. Chúng gọi tôi bằng ba. Tôi lạ một điều chúng không hề nhắc đến cha vàcũng không chịu thư từ về thăm gì cả. Tôi hỏi, Trang cười:

- Anh là cha, còn cha nào nữa"

Tôi tự hào trong lòng khi thấy vai hiệp sĩ của mình không phải làhợm hĩnh, vô ích.

***

Đến ngày bay về Việt Nam, Trang căn dặn tôi đủ điều. Một tủ lạnh đầy những món ăn tôi thích. Trang cũng chu đáo ghi lại thời gian biểu cho từng đứa con. Nàng xin đi ba tháng vàbảo:

- Bây giờ em nói thật với anh. Em có bệnh đàn bà. Ở đây tiền đâu lo thuốc men cho nỗi. Về bên ấy trị theo Đông Y đỡ tốn kém vàkết quả. Anh cố gắng giúp em lo cho các con. Về em sẽ thưởng .

Tôi chịu. Trang nói ngọt rồi thì hồn phách tôi xiêu. Sáu năm qua. Trang thật làmẫu người vợ màtôi yêu mến. Tằn tiện lo cho gia đình. Biết nấu cho tôi những món ăn ngon, bổ, rẻ. Biết cho tôi cảm giác bình an. Biết lắng nghe vàcảm thông với tôi những nhọc nhằn sau một ngày tôi về từ hãng. Lâu lâu còn làm vài món ăn để tôi mời mấy ông bạn làchiến hữu cũ đến cùng vui. Tôi thầm nghĩ: À! Vì Trang có bệnh màsáu năm nay chúng tôi không có một đứa con chung (")

*

Từ Việt Nam trở lại Mỹ đã được ba tháng rồi. Trang không hề kể gì cho tôi nghe về bệnh trạng của nàng. Mỗi lần tôi hỏi lúc nàng về ở đâu" Chữa bệnh bởi thầy thuốc nào" Tốn kém ra sao" Nàng đều né tránh câu trả lời vànói lảng sang chuyện khác.

Tôí nay, không nằm gối đầu lên cánh tay tôi như thường lệ. Trang ngồi thẳng dậy. Đột ngột hỏi tôi:

- Nếu ly dị nhau thì anh cần điều gì ở em"

Tôi sửng sốt:

- Em tỉnh hay mơ vậy"

Trang nhìn chằm chằm vào tôi - Một cách nhìn sáu năm qua tôi chưa thấy:

- Đơn giản vậy màanh hỏi em tỉnh hay mơ.

Tôi đùa dai:

- Đơn giản hay đang giỡn đây"

Trang lạnh lùng:

- Em muốn mình ly dị. Xin lỗi anh. Em muốn...

Không đợi Trang nói hết câu tôi cười buồn:

- OK! Em muốn! Anh chìu ý em. Nhưng Trang à. Em có thể nói cho anh biết trong sáu năm chung sống anh có lỗi gì với em hay với con không"

- Không. Anh không có lỗi gì hết. Nhưng...

- Thôi được rồi! Chừng nào"

Lời Trang như dao cứa vào tim tôi cách dữ dằn, tàn nhẫn:

- Mai mình đến văn phòng luật sư.

Tôi ra nằm ở sôpha.

Một đêm trắng!

*

Tôi bị tai nạn lao động ở hãng, nằm nhà gần tám tháng. Còn một tuần nữa bác sĩ sẽ giám định thương tật để hãng quyết định cho phép tôi đi cày lại lúc nào. Về gia cảnh bạn bè an ủi tôi:

- Thôi tất cả đã qua rồi. Thua keo nầy mình bày keo khác. Đàn ông đâu có sợ già, sợ ế gì.

Đúng rồi! Tất cả mọi chuyện đều đã qua. Chỉ có nỗi đau là còn lại. Đau quá! Cả hai lần kết hôn tôi đều trải lòng ra màsống cùng người phối ngẫu mình. Người đàn bàthứ nhất khinh khi tôi khi tôi sa cơ, thất thời, thất thế. Người đàn bà thứ hai dùng cạm bẫy ngọt ngào đánh động lòng trắc ẩn nơi tôi. Rồi giữa lúc đường đời tưởng như bằng phẳng ấy cây muốn lặng màgió chẳng dừng. Trang gấp rút ly dị tôi để mau mau bảo lãnh người chồng cũ sang, với luận điệu đầy nghĩa tình:

- Anh Trường tha lỗi cho em. Dù sao anh ấy cũng la cha của năm đứa con em. Tội nghiệp chúng. Chúng vô tội! Em hy sinh cuộc đời mình vì tương lai các con. Trước đây anh đã thương em, cứu vớt đời em giữa cơn bĩ cực thì xin anh thương cho trót. Anh hy sinh một mình anh mà cứu được cuộc đời của bảy con người. Anh không thấy hãnh diện vì việc làm phúc đức của mình sao"

Ôi! Miệng lưỡi đàn bà!

HOÀNG YẾN

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 844,265,615
Chủ Nhật tuần này là Father’s Day 17-6-2018. Mời đọc bài của Phan, nhà báo trong nhóm chủ biên một tuần báo tại Dallas, đã góp bài từ nhiều năm, từng nhận giải Vinh Danh Tác Giả Viết Về Nước Mỹ. Ông cũng là tác giả Viết Về Nước Mỹ đầu tiên có nhiều bài đạt số lượng người đọc trên dưới một triệu.
Tác giả đã nhận giải Việt Bút Trùng Quang trong chương trình Viết Về Nước Mỹ 2017. Bà là nhà giáo dạy ngôn ngữ và văn hóa Việt tại Hoa Kỳ và là tác giả Kim Dzung Phạm, sách “Vietnmese: An Intro-ductory Reader” đã được Viện Việt Học và University of California, Riverside xuấn bản lần đầu trong năm 2008.
2018-1968, đánh dấu 50 năm trận chiến Tết Mậu Thân, tiếp tục viết về cuộc tàn sát tại Huế. Susan Nguyễn là người gốc Huế, hiện đang định cư tại Canada, lần đầu viết bài gửi Việt Báo. Mong tác giả sẽ tiếp tục viết thêm.
Tác giả là một nhà giáo tại Việt Nam. Sang Mỹ, bà có 10 năm làm việc trong ngành du lịch, hiện là cư dân Little Saigon. Với sức viết mạnh mẽ, Phùng Annie Kim đã nhận giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2016. Sau đây, thêm bài viết mới của bà.
Tác giả cùng hai con gái tới Mỹ ngày 27 tháng Bảy năm 2001 theo diện đoàn tụ. Mười sáu năm sau, bà hiện có tiệm Nails ở Texas và kết hôn với một người Mỹ. Với sức viết giản dị mà mạnh mẽ, tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ năm thứ mười chín, 2017-08. Sau đây là bài viết thứ 11 trong năm.
Capvanto là một bút hiệu khác của Philato, có lẽ do lối viết cách điệu từ Tô Văn Cấp, tên thật tác giả. Ông sinh năm 1941, từng là một đại đội trưởng thuộc TĐ2/TQLC, đơn vị có biệt danh Trâu Điên. Với nhiều bài viết giá trị, ông đã nhận giải Á Khôi, Vinh Danh Tấc giả VVNM 2014. Năm mươi năm sau Mậu Thân, tác giả đã góp thêm niều bài viết đặc biệt. Nhân mùa Father’s Day đang tới, ông góp thêm bài viết về các cô nhi của tử sĩ VNCH hiện sống trên đất Mỹ.
Từ ngày Một tháng Bẩy 2018, giải thưởng Việt Báo Viết Về Nước Mỹ sang năm thứ hai mươi. Bài viết đầu tiên của Tố Nguyễn tới vào tháng Sáu, tháng cuối của Viết Về Nước Mỹ năm thứ XIX - 2017-18.
Vài hàng vềû tác giả: Trước 1975, là Giáo sư Trung học Đệ nhị cấp. Định cư tại Hoa Kỳ từ 1985. Công việc: High School Teacher; College Instructor, sau đó là Social Worker. Về hưu tại Westminster, từ 2002. Năm 2005, tác giả đã nhận giải đặc biệt Viết về Nước Mỹ. Sau đây là hồi ký của ông dành cho loạt bài “Tưởng nhớ 50 năm trận chiến Tết Mậu Thân 1968 - 2018.”.
Cam Li là cây bút quen thuộc của Việt Báo Viết Về Nước Mỹ. Bài viết là một truyện ngắn mới, tác giả gửi tặng cho bạn đọc Việt Báo.
Tác giả dự Viết Về Nước Mỹ ngay từ những năm đầu tiên và đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2012. Trước 1975, ông là sĩ quan hải quân VNCH, một nhà thơ quân đội, từng tu nghiệp tại Mỹ. Sau 1975, ông trở thành người tù chính trị và định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O. Hồi Ức về Trận Chiến Tết Mậu Thân sau đây là chuyện khi tác giả còn là một sinh viên.
Nhạc sĩ Cung Tiến